Xin đừng đùa bỡn với chữ nghĩa
Vài năm trở lại đây, cứ mỗi khi kết thúc kỳ thi tốt nghiệp THPT và tuyển sinh ĐH, người ta lại thấy rộ lên những đoạn trích các câu văn được gọi là câu văn kinh dị dẫn từ bài thi của các thí sinh không có khả năng viết tiếng Việt chuẩn. Hầu hết những bài viết xuất hiện trên mặt báo in và báo điện tử đều đi tới kết luận chung chung là cần phải chấn chỉnh việc dạy Văn trong trường phổ thông, ra vẻ quan tâm đến việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Nhưng trong cung cách trích dẫn, người đọc thường có cảm giác những câu trích chỉ nhằm mua vui cho độc giả, không thể hiện một tinh thần trách nhiệm nghiêm túc.

Trước hết, người đọc không hiểu vì sao những câu văn sai sót trầm trọng ấy có thể đến được mặt báo, khi những người viết báo thường không phải là các vị giám khảo. Ngay cả trong trường hợp những câu văn ấy được chính những vị giám khảo đưa ra, người đọc cũng không hiểu bằng cách nào các giám khảo có thể nhớ trọn vẹn những câu văn ấy, nhớ đến từng dấu chấm, dấu phẩy. Vì lẽ trên nguyên tắc chấm thi, giám khảo không được quyền mang các phương tiện sao chép, tài liệu, giấy tờ riêng và các loại bút không nằm trong quy định của Hội đồng chấm thi vào và ra khỏi khu vực chấm thi. Trong thời gian chấm thi, trách nhiệm của vị giám khảo không phải là nhẹ, vì quyết định của người chấm thi có ảnh hưởng đến cuộc đời học tập của thí sinh. Cho nên, theo suy nghĩ thông thường, giám khảo phải tập trung vào việc chấm thi chứ không thể để đầu óc bị chi phối bởi những việc không liên quan. Trong trường hợp đó, các vị giám khảo sẽ không thể học thuộc những câu văn được viết ra không tuân theo quy tắc văn phạm và không có giá trị biểu đạt ý tưởng ấy để sau này trích dẫn một cách chính xác như đã thể hiện trên các bài báo. Sau khi việc chấm thi kết thúc, trừ trường hợp có yêu cầu phúc khảo, người ta không có nhu cầu giở lại các bài thi đã được chấm. Những bài thi không hợp lệ lại càng không được đưa ra ngoài. Ngay những lần đầu tiên có sự trích dẫn chính xác những lối viết thiếu nghiêm túc lấy từ các bài thi cấp quốc gia, người ta đã thắc mắc. Hoặc có các vị giám khảo vi phạm quy chế chấm thi, đem phương tiện sao chép vào phòng thi một cách bất hợp pháp. Hoặc có những vị giám khảo chỉ đến phòng thi để học thuộc lòng những lối viết ngớ ngẩn của học trò với ý định phổ biến mua vui sau khi công tác chấm thi kết thúc, còn việc chấm thi thì không chú trọng.
Thứ đến, những người có thể tiếp cận với những cách viết tùy tiện trong bài thi của thí sinh chắc chắn phải liên quan đến việc giảng dạy môn Văn hoặc môn Sử. Cho dù những lời văn không theo mẹo luật ngôn ngữ và không có giá trị biểu đạt ý tưởng đã được trích dẫn ấy có thể không phải do học trò của các vị ấy viết ra, chắc chắn rằng các vị ấy cũng có phần trách nhiệm. Khi ấy, người có tinh thần trách nhiệm chỉ có thể cảm thấy xót xa vì có những đồng nghiệp đã không hoàn thành nhiệm vụ hướng dẫn học trò viết đúng tiếng Việt, những đồng nghiệp ấy có thể kể đến cả những vị đã dạy đứa trẻ từ những buổi học khai tâm trở đi, chứ không riêng một ai. Bên cạnh đó, người có tinh thần trách nhiệm còn hiểu rằng cả xã hội đã không hề quan tâm đến việc viết đúng, nói đúng tiếng Việt đến nỗi có những học sinh bị vây phủ bởi những lối viết lối nói không đúng tiêu chuẩn văn phạm nên bị ảnh hưởng và trở thành những kẻ chỉ có thể viết được những câu què, câu cụt. Với nhận thức ấy, người có trách nhiệm không thể đem những sai sót của học trò ra bêu riếu, mà chỉ nên có những góp ý về các biện pháp chấn chỉnh việc dạy Văn học Văn, dạy Sử học Sử được nêu lên trong những hội thảo giáo dục.
Đành rằng khi một vấn đề nào đó đã trở nên trầm trọng thì người ta có thể gióng lên tiếng chuông báo động với toàn xã hội; nhưng với những dẫn chứng về các đoạn văn được viết ra bởi những thí sinh thiếu khả năng biểu đạt bằng ngôn ngữ Việt như công chúng đã tiếp cận, phải chăng vấn đề đã đến mức quá trầm trọng đến nỗi không thể áp dụng các biện pháp thông báo nhẹ nhàng hơn việc trích dẫn công khai trên báo về các trường hợp sai sót ấy? Phải chăng chính người lớn trong lúc sử dụng tiếng Việt đã không hề có sai sót để có thể mang những sai sót của học trò ra phê phán một cách tùy tiện như vậy? Khi đưa những câu văn sai sót ấy ra công khai, những vị có trách nhiệm có bao giờ nghĩ đến phản ứng tâm lý của đứa học trò là tác giả những câu văn ấy không? Tất nhiên đứa học trò đó vô danh, nhưng cũng có thể đứa học trò vô danh đó biết rằng câu văn mình đã viết đang là đối tượng của một sự bêu riếu, vì thế rất có khả năng đứa học trò ấy sẽ mang một mặc cảm nặng nề đối với hệ thống giáo dục nói chung.
Đã từ nhiều năm, việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt luôn là nỗi băn khoăn của mọi người. Đã có không biết bao lời kêu gọi cần phải quan tâm đến việc nói đúng viết đúng tiếng Việt, nhưng hình như những lời kêu gọi ấy chỉ như những tiếng vọng rơi vào khoảng không. Không nói đến hiện tượng giới trẻ hồn nhiên “sáng tác” những lối nói lối viết mang tính nổi loạn, ngay cả những người có trách nhiệm chính trong lĩnh vực phổ biến ngôn ngữ viết và ngôn ngữ nói vẫn hàng ngày ném vào xã hội những lối nói lối viết bừa bãi, không cần biết đến văn phạm, quy tắc gì cả. Có cả những người nổi tiếng nhân danh nghệ thuật đưa ra những cách nói cách viết quá xa lạ, những từ vựng quá kiểu cách khiến cho nhiều người tưởng lầm rằng đấy là lối nói lối viết đáng được bắt chước. Trong lúc tiếng Việt đang bị sử dụng một cách bừa bãi như thế, việc phổ biến những sai sót về cách viết tùy tiện trích từ bài thi của một số thí sinh yếu kém có thể lại vô tình kích thích lớp trẻ ứng dụng chúng trong những trường hợp cá biệt, ban đầu chỉ với mục đích mua vui, nhưng rồi có khả năng hình thành những lối nói lối viết mới hoàn toàn phá vỡ cách tư duy truyền thống, gây nên sự rối loạn về ngôn ngữ.
Ngôn ngữ thể hiện bản chất của một dân tộc. Các nhà ngôn ngữ học đã chỉ ra rằng, sự hình thành và phát triển tiếng Việt là cả một quá trình lâu dài, có sự tiếp biến văn hóa với nhiều tộc người nhưng cũng có rất nhiều nỗ lực để bảo tồn những nét riêng của văn hóa Việt. Nếu không đóng góp được gì trong việc duy trì sự trong sáng của tiếng Việt, chúng ta cũng không có quyền đùa bỡn với chữ nghĩa để tiếp tay làm rối loạn, gây ô nhiễm đời sống ngôn ngữ có thể dẫn đến nguy cơ hủy hoại nền văn hóa truyền thống. Vì thế, việc bình phẩm hay phê phán các lề lối sử dụng ngôn ngữ cần được trình bày một cách nghiêm túc, không nên xem đó chỉ là trò mua vui.
Theo Văn hóa Phật giáo, số 85.2009