Luật sư Trần Thị Khánh Hương, Đoàn Luật sư TP. Hà Nội tư vấn như sau:
Tại khoản 14, Điều 3, Luật Hôn nhân và Gia đình quy định như sau:
Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án.
Theo đó, có thể hiểu, khi có bản án, quyết định ly hôn của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật thì quan hệ vợ, chồng sẽ chấm dứt. Đây cũng là quy định về thời điểm chấm dứt hôn nhân nêu tại khoản 1, Điều 57, Luật Hôn nhân và Gia đình:
Quan hệ hôn nhân chấm dứt kể từ ngày bản án, quyết định ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Có thể thấy, chỉ khi vợ, chồng yêu cầu ly hôn, được Tòa án xem xét, giải quyết thông qua bản án, quyết định ly hôn đã có hiệu lực pháp luật thì quan hệ vợ, chồng cũng chấm dứt vào thời điểm bản án, quyết định ly hôn có hiệu lực.
Khởi kiện tranh chấp ly hôn giúp giải quyết rất nhiều vấn đề, nó không đơn thuần chỉ giải quyết xin ly hôn mà còn giúp người khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp về nuôi con, tài sản chung, xác định cha mẹ cho con,... hoặc hủy kết hôn trái pháp luật.
Quyền khởi kiện ly hôn:
Pháp luật có quy định về quyền khởi kiện ly hôn theo khoản 1, điều 51, luật hôn nhân và gia đình năm 2014 như sau:
“Điều 51. Quyền yêu cầu giải quyết ly hôn
1. Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.
2. Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắcbệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ đượchành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.
3. Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.”.
Điều 56 Luật hôn nhân gia đình quy định trường hợp đơn phương ly hôn như sau:
“1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hônnếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ củavợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.”.
Tuy nhiên, Tòa án chỉ chấp nhận đơn ly hôn đơn phương của bạn nếu có các căn cứ sau theo mục 8, Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật hôn nhân gia đình, cụ thể :
“8. Căn cứ cho ly hôn (Điều 89)
a. Theo quy định tại khoản 1 Điều 89 thì Toà án quyết định cho ly hôn nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài được, mục đích của hôn nhân không đạt được.
a.1. Được coi là tình trạng của vợ chồng trầm trọng khi:
– Vợ, chồng không thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau như người nào chỉ biết bổn phận người đó, bỏ mặc người vợ hoặc người chồng muốn sống ra sao thì sống, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, nhắc nhở, hoà giải nhiều lần.
– Vợ hoặc chồng luôn có hành vi ngược đãi, hành hạ nhau, như thường xuyên đánh đập, hoặc có hành vi khác xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm và uy tín của nhau, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, đoàn thể nhắc nhở, hoà giải nhiều lần.
– Vợ chồng không chung thuỷ với nhau như có quan hệ ngoại tình, đã được người vợ hoặc người chồng hoặc bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, nhắc nhở, khuyên bảo nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình;
a.2. Để có cơ sở nhận định đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài được, thì phải căn cứ vào tình trạng hiện tại của vợ chồng đã đến mức trầm trọng như hướng dẫn tại điểm a.1, mục 8 này. Nếu thực tế cho thấy đã được nhắc nhở, hoà giải nhiều lần, nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình hoặc vẫn tiếp tục sống ly thân, bỏ mặc nhau hoặc vẫn tiếp tục có hành vi ngược đãi hành hạ, xúc phạm nhau, thì có căn cứ để nhận định rằng đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài được.
a.3. Mục đích của hôn nhân không đạt được là không có tình nghĩa vợ chồng; không bình đẳng về nghĩa vụ và quyền giữa vợ, chồng; không tôn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của vợ, chồng; không tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của vợ, chồng; không giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển mọi mặt.”.
Theo quy định tại Khoản 4, Điều 85, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Đối với việc ly hôn thì các đương sự không được ủy quyền cho người khác tham gia tố tụng thay mình. Trừ trường hợp quy định tại khoản 2, Điều 51, Luật Hôn nhân và Gia đình. Đó là khi khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ
Điều 55. Thuận tình ly hôn
Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án công nhận thuận tình ly hôn; nếu không thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án giải quyết việc ly hôn.
Tòa án có thẩm quyền thủ lý hồ sơ
Điều 36, Bộ Luật tố tụng dân sự 2015 quy định về thẩm quyền của các Tòa án chuyên trách Tòa án nhân dân cấp huyện như sau:
“Điều 36. Thẩm quyền của các Tòa chuyên trách Tòa án nhân dân cấp huyện
1. Tòa dân sự Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ việc về dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện quy định tại Điều 35 của Bộ luật này.
2. Tòa gia đình và người chưa thành niên Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ việc về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện quy định tại Điều 35 của Bộ luật này.
3. Đối với Tòa án nhân dân cấp huyện chưa có Tòa chuyên trách thì Chánh án Tòa án có trách nhiệm tổ chức công tác xét xử và phân công Thẩm phán giải quyết vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện.”
Điều 39, Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định về thẩm quyền theo lãnh thổ như sau:
“Điều 39. Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ
1. Thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án theo lãnh thổ được xác định như sau:
a) Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các Điều 26, 28, 30 và 32 của Bộ luật này;
b) Các đương sự có quyền tự thỏa thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Tòa án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cá nhân hoặc nơi có trụ sở của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cơ quan, tổ chức giải quyết những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các điều 26, 28, 30 và 32 của Bộ luật này;
c) Đối tượng tranh chấp là bất động sản thì chỉ Tòa án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết.…”
Như vậy, thẩm quyền sẽ thuộc về Tòa án nhân dân cấp huyện nơi anh chị đang cư trú. Và có hai trường hợp về Thẩm quyền của Tòa án như sau:
- Trong trường hợp đơn phương xin ly hôn: theo điểm a, khoản 1, Điều 39, Bộ luật tố tụng dân sự 2015 thì Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nhân dân quận, huyện nơi chồng chị đang cư trú.
- Trong trường hợp thuận tình ly hôn : theo điểm h, khoản 2, Điều 39, Bộ luật tố tụng dân sự 2015 thì Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nhân dân quận, huyện nơi chị hoặc chồng chị cư trú.
Tuy nhiên, nếu những vụ án ly hôn này có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài thì Tòa án cấp huyện không có thẩm quyền mà thuộc về thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh (Căn cứ Điều 37 BLTTDS).
Xác định nơi cư trú của bị đơn
Điều 2 Luật cư trú 2020 giải thích nơi cư trú của công dân như sau:
Cư trú là việc công dân sinh sống tại một địa điểm thuộc đơn vị hành chính cấp xã hoặc đơn vị hành chính cấp huyện ở nơi không có đơn vị hành chính cấp xã (sau đây gọi chung là đơn vị hành chính cấp xã).
Điều 11 Luật cư trú 2020 quy định cụ thể vấn đề nơi cư trú của công dân
1. Nơi cư trú của công dân bao gồm nơi thường trú, nơi tạm trú.
2. Trường hợp không xác định được nơi thường trú, nơi tạm trú thì nơi cư trú của công dân là nơi ở hiện tại được xác định theo quy định tại khoản 1 Điều 19 của Luật này.
Như vậy, đối với các trường hợp khởi kiện, khi xác định thẩm quyền tòa án nơi bị đơn cư trú hoàn toàn có thể lựa chọn nơi bị đơn “thường trú” hoặc “tạm trú”. Trong trường hợp không xác định bị đơn hiện tại đang ở đâu thì chị có nhu cầu ly hôn đơn phương sẽ nộp đơn tại nơi chồng chị - bị đơn đăng ký hộ khẩu thường trú.
Hồ sơ khởi kiện đơn phương ly hôn bao gồm:
- Đơn xin ly hôn đơn phương được ban hành theo mẫu;
- Đăng ký kết hôn (bản chính); nếu không có thì có thể xin cấp bản sao;
- Bản sao có chứng thực Chứng minh nhân dân/Căn cước công dân của vợ và chồng;
- Bản sao chứng thực giấy khai sinh của con nếu có con chung;
- Nếu có tài sản chung và yêu cầu phân chia tài sản chung khi ly hôn thì chuẩn bị giấy tờ chứng minh quyền sở hữu đối với tài sản chung này.
Như vậy, theo quy định của pháp luật, chị có thể yêu cầu Tòa án phân chia quyền nuôi con và tài sản chung cùng với đề nghị giải quyết việc ly hôn hoặc hai vợ chồng có thể tự thỏa thuận về quyền nuôi con và tài sản chung thì Tòa án chỉ giải quyền việc ly hôn.
Việc Tòa án trả lại đơn khởi kiện ly hôn, không nhận thụ lí vụ án vì lý do không có mặt anh ta tại địa phương là chưa đúng với quy định pháp luật. Chị có thể mang sổ hộ khẩu gia đình có tên chồng chị lên UBND xã nơi cư trú ghi trong sổ hộ khẩu đề nghị xác nhận nơi cư trú và nộp kèm theo hồ sơ khởi kiện được hướng dẫn như trên. Nếu chồng chị trốn tránh không về thì Tòa án vẫn phải thụ lý và giải quyết theo quy định pháp luật. Chị nên giải quyết trước khi đi Nhật để thủ tục đỡ phức tạp và đỡ mất thời gian giải quyết hơn.