Xác định rõ địa vị pháp lý và phân quyền giải quyết
Để giải quyết kịp thời các vấn đề phát sinh giữa hai kỳ họp HĐND, đề nghị sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức chính quyền địa phương theo hướng xác định rõ vị trí “cơ quan Thường trực HĐND”; đồng thời, xem xét phân quyền cho Thường trực HĐND tỉnh giải quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền của HĐND tỉnh phát sinh giữa hai kỳ họp thường lệ được HĐND tỉnh giao hoặc phân cấp cho Thường trực HĐND tỉnh.
Thiếu chặt chẽ, dẫn đến tùy nghi trong thực hiện
Hiện nay, việc quy định thẩm quyền giải quyết các vấn đề phát sinh giữa hai kỳ họp chưa được làm rõ và đầy đủ trong các văn bản pháp luật, gây khó khăn cho việc áp dụng và thực hiện, phần nào tác động, ảnh hưởng đến tiến độ triển khai, thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Khoản 3, Điều 6, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 quy định Thường trực HĐND là “cơ quan thường trực của HĐND” và mở rộng thành phần Thường trực HĐND cấp tỉnh gồm Chủ tịch, 2 Phó Chủ tịch HĐND, các ủy viên là Trưởng ban của HĐND và Chánh Văn phòng HĐND tỉnh. Cùng với việc quy định là “cơ quan”, Luật cũng quy định cụ thể chế độ hội họp để quyết định và xem xét các vấn đề của Thường trực HĐND. Với vị trí là cơ quan thường trực của HĐND và sự đổi mới trong kỹ thuật lập pháp đã thể hiện mong muốn của Luật Tổ chức chính quyền địa phương là tăng cường vai trò, tương xứng với cơ cấu của Thường trực HĐND.
![]() Cần phân quyền cho Thường trực HĐND tỉnh giải quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền của HĐND tỉnh phát sinh giữa hai kỳ họp thường lệ |
Theo quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, chính quyền địa phương (HĐND và UBND) tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được phân quyền (Khoản 2, Điều 12); được quyền phân cấp cho chính quyền địa phương hoặc cơ quan nhà nước cấp dưới thực hiện một cách liên tục, thường xuyên một hoặc một số nhiệm vụ, quyền hạn thuộc thẩm quyền của mình, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác (Khoản 1, Điều 13).
Tuy nhiên, nếu so sánh giữa quy định về vị trí pháp lý tại Khoản 3, Điều 6 và chức năng nhiệm vụ tại Điều 104 thì thấy chưa có sự tương thích. Nghĩa là, chức năng, nhiệm vụ chưa phản ánh hết vị trí, vai trò để Thường trực HĐND là cơ quan thường trực của HĐND. Mặt khác, do chưa quy định đầy đủ về vị trí pháp lý cũng như cơ chế phân cấp, giao quyền cho Thường trực HĐND dẫn đến cách hiểu về thẩm quyền của Thường trực HĐND trong giải quyết các vấn đề phát sinh giữa 2 kỳ họp còn chưa thống nhất.
Đó là: Nếu áp dụng theo Khoản 3 Điều 6 Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Thường trực HĐND là cơ quan thường trực của HĐND, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Vì vậy, Thường trực HĐND sẽ thực hiện các nhiệm vụ quy định Điều 104 và các quy định khác có giao trực tiếp cho Thường trực HĐND được phép thực hiện. Ví dụ như nhiệm vụ điều chỉnh dự toán ngân sách địa phương trên cơ sở trình của UBND (Khoản 3, Điều 52 Luật Ngân sách Nhà nước); quyết định phương án sử dụng tăng thu và tiết kiệm chi ngân sách cấp mình (Khoản 2, Điều 59 Luật NSNN năm 2015); mặc dù, Luật Tổ chức chính quyền địa phương quy định việc điều chỉnh dự toán ngân sách địa phương thuộc thẩm quyền của HĐND (Điều 19).
Cách hiểu thứ hai là, Thường trực HĐND chỉ thực hiện các nhiệm vụ được quy định tại Điều 104 Luật Tổ chức chính quyền địa phương. Mọi vấn đề phát sinh giữa hai kỳ họp HĐND phải được giải quyết tại kỳ họp HĐND, không có bất cứ hình thức ủy quyền, phân cấp, phân công của HĐND đối với một chủ thể khác để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được luật định là của HĐND. Cũng không còn cơ chế “phối hợp” giữa Thường trực HĐND với UBND để giải quyết các vấn đề phát sinh giữa hai kỳ họp như trước kia.
Với hai cách hiểu trên, có thể thấy cách hiểu nào cũng có yếu tố hợp lý và chưa hợp lý. Điều này phản ánh sự thiếu chặt chẽ, dẫn đến tình trạng tùy nghi trong thực hiện liên quan đến pháp luật về tổ chức và hoạt động của HĐND.
Giải quyết kịp thời các vấn đề phát sinh
Quay lại tìm hiểu Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành cho thấy, tuy Luật năm 2003 không quy định Thường trực HĐND là cơ quan thường trực của HĐND nhưng Nghị quyết số 753/2005/NQ - UBTVQH11 đã nêu một trong những nhiệm vụ của Thường trực HĐND là phối hợp với UBND giải quyết những vấn đề phát sinh khi thực hiện nghị quyết của HĐND trong thời gian giữa hai kỳ họp HĐND; xem xét, quyết định điều chỉnh, bổ sung những biện pháp nhằm bảo đảm thực hiện nghị quyết của HĐND theo đề nghị của UBND, Ban của HĐND và báo cáo HĐND tại kỳ họp gần nhất (Khoản 4, Điều 21).
Mặc dù Nghị quyết 753 không quy định cụ thể cơ chế “phối hợp” giữa Thường trực HĐND và UBND (trình tự, hình thức văn bản) nhưng trên thực tế quy định này đã là cơ sở pháp lý để Thường trực HĐND và UBND giải quyết kịp thời các vấn đề phát sinh giữa hai kỳ họp của HĐND, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của HĐND, giảm thiểu việc tổ chức kỳ họp bất thường của HĐND.
Thực tế cho thấy, để giải quyết kịp thời các vấn đề phát sinh giữa hai kỳ họp HĐND, gắn liền với các giải pháp nâng cao vai trò của Thường trực HĐND, hạn chế việc tổ chức kỳ họp bất thường, đề nghị QH sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức chính quyền địa phương theo hướng xác định rõ vị trí “cơ quan Thường trực HĐND”; đồng thời, xem xét phân quyền cho Thường trực HĐND tỉnh giải quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền của HĐND tỉnh phát sinh giữa hai kỳ họp thường lệ được HĐND tỉnh giao hoặc phân cấp cho Thường trực HĐND tỉnh. Không nên quy định theo hướng các vấn đề thuộc thẩm quyền của HĐND phát sinh trong thời gian giữa hai kỳ họp sẽ được xem xét, quyết định tại kỳ họp bất thường của HĐND tỉnh. Vì lượng công việc phát sinh giữa hai kỳ họp rất lớn và cần được xử lý kịp thời, trong khi để tổ chức kỳ họp bất thường phải có thời gian chuẩn bị và tốn kém chi phí do phải triệu tập các đại biểu HĐND ở các địa phương về dự kỳ họp.
Bên cạnh đó, việc giao cho Thường trực HĐND tỉnh xử lý các vấn đề phát sinh giữa hai kỳ họp phải được HĐND phân cấp hoặc giao trong Quy chế hoạt động của HĐND. Mặt khác, Thường trực HĐND, UBND cần nghiên cứu xây dựng quy chế phối hợp nhằm xử lý các vấn đề phát sinh giữa hai kỳ họp. Trong đó, quy định cụ thể về thời gian gửi hồ sơ, danh mục tài liệu trong hồ sơ xin ý kiến… để Thường trực, các Ban HĐND có đủ thời gian, thông tin cần thiết nghiên cứu, xem xét hoặc tổ chức khảo sát, thẩm tra trước khi có văn bản trả lời.