Xác định đúng, đủ, chính xác chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án nhân dân

Minh Vân lược ghi 04/06/2014 16:28

Thảo luận về dự án Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi), hầu hết các ý kiến đều cho rằng dự án Luật có nhiều quy định mới, bước đầu cụ thể hóa và bám sát các quy định của Hiến pháp năm 2013, đồng thời thể hiện được một số định hướng cải cách tư pháp của Đảng liên quan đến tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân. Bên cạnh đó Hiếp pháp mới quy định tòa án là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp - là điểm mới rất quan trọng trong lịch sử lập hiến nhằm bảo đảm tính độc lập của tòa án trong hoạt động xét xử, thực sự là cơ quan bảo vệ công lý nên điều này đòi hỏi phải có sự thay đổi thiết kế về vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn và địa vị pháp lý của thẩm phán cụ thể hóa trong điều luật, bảo đảm tính độc lập của thẩm phán. Đây là một trong những chế định hết sức quan trọng, có ý nghĩa quyết định trong việc thực hiện quyền tư pháp có được hiệu quả hay không, có bảo đảm tính độc lập của thẩm phán hay không.

ĐBQH Hồ Thị Thủy (Vĩnh Phúc): Xác định đúng, đủ, chính xác chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án nhân dân
 
Một, về quyền tư pháp, để cụ thể hóa quy định của Hiến pháp về quyền tư pháp, Luật tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) cần sửa đổi, bổ sung những nội dung nhằm xác định đúng, đủ, chính xác chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án nhân dân, tạo cơ sở pháp lý cho Tòa án nhân dân thực hiện có hiệu quả quyền tư pháp, góp phần xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Tòa án thực hiện nhiệm vụ hiến định là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa,bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì quyền tư pháp không chỉ là quyền xét xử mà còn là quyền bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử. Đây là quyền hiến định, quyền riêng có của tòa án. Tòa án là cơ quan bảo vệ công lý, cho nên những vấn đề liên quan đến quyền con người như quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn, quyết định xử lý các vi phạm hành chính nghiêm trọng, ảnh hưởng đến quyền nhân thân và tài sản của cá nhân, tổ chức phải do tòa án quyết định. Các nhiệm vụ, quyền hạn này cũng cần được thể hiện rõ hơn trong nội hàm quyền tư pháp. Cần tiếp tục nghiên cứu để xây dựng cơ chế kiểm soát việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, trong đó cần tiếp tục mở rộng thẩm quyền của tòa án trong việc xét xử các khiếu kiện hành chính. Để thực hiện tốt quyền tư pháp cần có những thiết chế bảo đảm thực hiện nguyên tắc thẩm phán hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Đề nghị cần có quy định cụ thể để đảm bảo khi xét xử tòa án không bị giới hạn bởi tội danh và khung hình phạt theo cáo trạng của viện kiểm sát để công tác xét xử đảm bảo đúng người, đúng tội, không để lọt tội phạm, chống oan sai.

Về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân, xét xử độc lập chỉ tuân theo pháp luật là một trong những nguyên tắc cơ bản của hoạt động xét xử, bảo đảm các quyết định xét xử không bị ảnh hưởng, bởi bất cứ yếu tố nào không liên quan đến vụ án. Chỉ có như vậy tinh thần thượng tôn pháp luật mới được đảm bảo, việc xét xử mới khách quan, công tâm, đúng người đúng tội, đúng pháp luật. Để thực hiện nguyên tắc này, tôi thống nhất quy định theo hướng tổ chức tòa án nhân dân không phụ thuộc vào đơn vị hành chính. Theo đó tại Khoản 4, Điều 3 sẽ là các tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực; Khoản 1, Điều 5 quy định rõ tòa án nhân dân được tổ chức, hoạt động theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính…


ĐBQH Bùi Mạnh Hùng (Bình Phước): Việc trích gần như nguyên văn những quy định tại Hiến pháp sẽ không đáp ứng được yêu cầu của một văn bản luật
 
Mặc dù không quy định về nguyên tắc hoạt động trong phạm vi điều chỉnh của luật nhưng tại Điều 5 có nội dung về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân. Điều này thể hiện tính không đồng bộ, thiếu chặt chẽ trong các điều luật của dự thảo, tôi đề nghị cần được xem xét lại trong các điều luật khác.

Trên cơ sở bổ sung nguyên tắc về hoạt động của Tòa án nhân dân, đề nghị sửa đổi Luật Tòa án nhân dân lần này, ngoài việc tuân thủ các quy định mới của Hiến pháp, luật phải có những quy định cụ thể, chi tiết, nhằm góp phần khắc phục những bản án oan sai, tạo được niềm tin của nhân dân đối với tòa án và nhất là đối với tòa hành chính.
 
Điều 5, về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân, dự thảo đã quy định 12 nguyên tắc, tôi thấy gần như dự thảo đã trích nguyên những quy định tại Hiến pháp. Tôi đề nghị cần phải nghiên cứu để tách thành 2 điều: một điều quy định về nguyên tắc tổ chức của Tòa án nhân dân; một điều quy định về nguyên tắc hoạt động của Tòa án nhân dân, nhằm phân biệt và quy định rõ ràng, cụ thể để dễ hiểu, tránh việc nêu khẩu hiệu chung chung như dự thảo. Việc trích gần như nguyên văn những quy định tại Hiến pháp là không đáp ứng được yêu cầu của một văn bản luật với vai trò của luật là cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp.

Dự thảo luật cần bổ sung các quy định cụ thể, quy định được cách thức hoạt động của một phiên tòa, thiết kế tổ chức một phiên tòa như thế nào để bảo đảm nguyên tắc hoạt động của tòa đã đề ra, nhằm bảo đảm về quyền con người, quyền công dân và bảo đảm các quy định trong Hiến pháp. Đặc biệt nguyên tắc tranh tụng trong xét xử cần được bảo đảm như thế nào, cần được thể hiện rõ cụ thể bằng các quy định của luật, không cần nhắc lại Hiến pháp và phải thể hiện việc triển khai Hiến pháp. Có như vậy Hiến pháp mới thực sự đi vào cuộc sống. Tôi quan tâm nhất vấn đề này, bởi vì trong thời gian qua không ít ý kiến của cử tri cho rằng việc tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của các luật sư nhiều khi không được xem xét một cách nghiêm túc. Ngay cả vị trí ngồi của luật sư trong phiên tòa cũng không tương xứng với vai trò của một bên được tham gia tranh tụng, nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bị can, bị cáo. Đó cũng là một trong những nguyên nhân, theo tôi đó là những nguyên nhân của những bản án oan sai…
 
ĐBQH Nguyễn Tiến Sinh (Hòa Bình): Một số quy định cụ thể hóa Hiến pháp còn chưa phù hợp
 
Trước hết, về thực hiện chức năng của Tòa án nhân dân, trong đó có chức năng về thực hiện quyền tư pháp tại Điều 2 dự thảo luật, tôi cơ bản nhất trí với dự thảo, vì đã bám sát và cụ thể hóa tinh thần của Hiến pháp 2013. Đó là Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện quyền tư pháp, Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nước, lợi ích hợp pháp của các tổ chức và cá nhân. Như vậy, Hiến pháp đã xác định chức năng, nhiệm vụ trọng tâm của tòa án nhân dân là hoạt động xét xử, thông qua hoạt động xét xử tòa án nhân dân thực hiện chức năng của mình. Tuy nhiên, dự thảo có một số quy định cụ thể hóa Hiến pháp, tôi cho là chưa phù hợp.

Tại Điểm b, Khoản 1 quy định tòa án nhân dân có quyền kiểm tra kết luận, tính hợp pháp và có căn cứ của các hành vi quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Nội dung này, tôi đề nghị cần nghiên cứu làm rõ hơn. Theo tôi, hoạt động tư pháp hiện nay được phân công cho rất nhiều cơ quan khác nhau do đặc thù hệ thống chính trị của nước ta, ví dụ công an nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân và Bộ Tư pháp, mỗi cơ quan đều có những quy định chặt chẽ về tổ chức, thanh tra, kiểm tra, giám sát đặc biệt trong hoạt động tố tụng. Việc phân công này khá phù hợp, đó là không tập trung quá nhiều quyền lực vào một cơ quan để chống lạm quyền và các cơ quan có sự phối hợp, kiểm soát hoạt động lẫn nhau theo quy định của pháp luật. Do đó tôi đề nghị không bổ sung điểm d, Khoản 1 vào dự thảo luật.
 
Tại Điểm h, Khoản 1, Điều 21 dự thảo luật quy định Tòa án nhân dân tham gia tính hợp hiến, hợp pháp của các dự án luật, trước khi trình QH tại điểm giám sát; Tòa án nhân dân kiến nghị với QH, UBTVQH bãi bỏ văn bản của Chủ tịch Nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án Nhân dân Tối cao, Viện kiểm sát Nhân dân Tối cao trái với Hiến pháp, luật, pháp lệnh, nghị quyết của QH và nghị quyết của UBTVQH tại điểm hoạt động. Tôi cho quy định này cũng không phù hợp với Điều 119 của Hiến pháp 2013 về nhiệm vụ của Tòa án nhân dân trong việc bảo vệ Hiến pháp, đó là QH, các cơ quan của QH, Chủ tịch Nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án Nhân dân Tối cao, Viện kiểm sát Nhân dân và các cơ quan khác của nhà nước và toàn thể nhân dân có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp; cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định. Như vậy, chủ thể bảo vệ Hiến pháp là các cơ quan trong đó có tòa án nhân dân. Hơn nữa cơ chế bảo vệ Hiến pháp cũng chưa được luật quy định. Do đó, tôi đề nghị cần nghiên cứu kỹ, trước mắt không bổ sung quy định điểm g, điểm h vào dự thảo luật. Trong trường hợp cần bổ sung thì cần làm rõ các yêu cầu của quy định, nhiệm vụ này. Đó là hậu quả pháp lý của việc kiến nghị, góp ý và thẩm tra, thẩm định, đặc biệt là ý kiến của tòa án nhân dân đối với các nghị quyết, luật của QH khi tòa án nhân dân cho rằng các luật, nghị quyết đó là vi phạm Hiến pháp thì xử lý như thế nào, trình tự thủ tục xem xét và để thực hiện các kiến nghị này như thế nào. Chúng tôi cũng đề nghị luật cần làm rõ thêm trước khi bổ sung các nội dung này…
 
ĐBQH Huỳnh Ngọc Ánh (TP Hồ Chí Minh): Phải có sự thay đổi thiết kế về vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn và địa vị pháp lý của thẩm phán
 
Hiếp pháp mới quy định tòa án là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp, là một điểm mới rất quan trọng trong lịch sử lập hiến. Quy định như vậy nhằm bảo đảm tính độc lập của tòa án trong hoạt động xét xử, thực sự là cơ quan bảo vệ công lý. Sự thay đổi này đòi hỏi phải có sự thay đổi thiết kế về vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn và địa vị pháp lý của thẩm phán được cụ thể hóa trong điều luật, bảo đảm tính độc lập của thẩm phán.

Trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, tôi cho rằng đây là một trong những chế định hết sức quan trọng, có ý nghĩa quyết định trong việc thực hiện quyền tư pháp có được hiệu quả hay không, có đảm bảo tính độc lập của thẩm phán hay không? Trước hết về nhiệm kỳ của thẩm phán, tôi xin nhắc lại quá khứ: từ chế định thẩm phán do HĐND bầu trước đây nhiệm kỳ là 2 năm đến Hiếp pháp 1992 sửa đổi thẩm phán do Chủ tịch Nước bổ nhiệm với nhiệm kỳ là 5 năm. Đến năm 2002 Hiến pháp sửa đổi, bổ sung Chủ tịch Nước chỉ bổ nhiệm thẩm phán Tòa án tối cao, còn thẩm phán khác do Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao bổ nhiệm với nhiệm kỳ là 5 năm. Qua quá trình thay đổi như vậy, về thực tiễn bản thân tôi trải qua 5 lần tái bổ nhiệm cho thấy mỗi lần làm thủ tục tái bổ nhiệm phải trải qua nhiều khâu, nhiều thủ tục, nhiều cơ quan, đoàn thể có ý kiến. Phải qua hội đồng tuyển chọn rồi trình lên Chánh án Tòa án Tối cao ra quyết định trước khi có ý kiến của cấp ủy địa phương ít nhiều tạo nên tâm ý không yên tâm, thậm chí còn nhiều trường hợp còn có tâm lý e ngại trước những tác động của những cơ quan, cá nhân có thẩm quyền xem xét đánh giá tuyển chọn đề nghị tái bổ nhiệm, nhất là thời gian đề nghị tái bổ nhiệm sắp đến gần, đây là một trong những nguyên nhân làm nguyên tắc độc lập của thẩm phán bị ảnh hưởng ít nhiều.

Mặt khác, quy trình như vậy nhưng bản thân tôi cũng như phần lớn các thẩm phán trên toàn quốc đều được tái bổ nhiệm mà không cần phải trải qua bất kỳ sát hạch hay kiểm tra kiến thức, năng lực gì, chỉ có một số ít thẩm phán vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức nghề nghiệp bị kỷ luật hoặc một số thẩm phán bị tỷ lệ án hủy, sửa cao, bị ngưng tái nhiệm từ 6 tháng đến 1 năm hoặc 2 năm rồi cũng được tái bổ nhiệm lại. Như vậy, qua thực tiễn cho thấy việc quy định nhiệm kỳ thẩm phán là 5 năm cũng không có ý nghĩa gì lớn mà chỉ mang lại tâm lý lo lắng, e ngại, không yên tâm làm việc, việc này gây tốn kém về thời gian, vật chất cho công tác tái bổ nhiệm. Nhất là Hiến pháp mới quy định thẩm phán do Chủ tịch Nước bổ nhiệm thì thời gian dành cho việc này tương đối lớn, có khả năng sẽ không kịp thời, ảnh hưởng đến việc xét xử của thẩm phán, của các đơn vị. Do vậy, tôi đề nghị bổ nhiệm thẩm phán không kỳ hạn, nếu thời điểm bây giờ chưa đáp ứng được yêu cầu thì ít nhất phải là 10 năm như dự thảo, như vậy cũng thể chế hóa được tinh thần Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị.

Về ngạch thẩm phán, nếu luật hiện hành chia ra thành thẩm phán tối cao, thẩm phán trung cấp, thẩm phán sơ cấp, tôi cho rằng như vậy là bất hợp lý. Mặt khác phân định ra chức danh thẩm phán trung cấp, thẩm phán sơ cấp tạo ra sự hiểu lầm, sai về trình độ, năng lực của thẩm phán, ảnh hưởng đến lòng tin và sự tín nhiệm của nhân dân đối với các thẩm phán, dẫn đến tâm lý chống án lên cấp trên để giải quyết đúng đắn hơn. Hơn nữa, thẩm phán ở cấp nào cũng nhân danh nhà nước, làm nhiệm vụ là ra những sản phẩm đều là những bản án và khi bản án có hiệu lực pháp luật thì mọi nơi, mọi cấp, mọi cơ quan, mọi công dân đều có nghĩa vụ chấp hành. Ngoài ra, còn tạo điều kiện thuận lợi cho công tác tổ chức của tòa án trong việc thực hiện chủ trương của Đảng về quy hoạch cán bộ, luân chuyển, điều động cán bộ...

    Nổi bật
        Mới nhất
        Xác định đúng, đủ, chính xác chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án nhân dân
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO