Vốn “tự có” của điện ảnh Châu Á

31/05/2007 00:00

Tài năng và sức sống trong ngành kinh doanh điện ảnh Châu Á có thể đang hấp dẫn các nhà sản xuất từ các châu lục khác, nhưng thực tế, nền công nghiệp này ở Viễn Đông vẫn còn giữ nhiều nét khác biệt so với Châu Âu và Mỹ, đặc biệt trong vấn đề tài chính.

      Tại Châu Á, các lĩnh vực rộng lớn trong ngành điện ảnh đều mang tính tự cung tự cấp; có thể đầu tư và bù đắp lại mà không cần liên quan tới thị trường quốc tế. Điều đó dường như đặc biệt đúng đắn với các thể loại nhất định như kịch melô của Thái, phim hài Hồng Kông, các tác phẩm có tính tuyên truyền của Trung Quốc và toàn bộ đầu ra quốc nội của Indonesia, Malaysia và Ấn Độ. Nhưng khi ngân sách đầu vào ngày càng tăng nhiều, ngành này rất cần một nguồn tài chính đa dạng. 
      Bảy năm trước, hướng đi ấy đã được khởi động tại Diễn đàn Tài chính về Điện ảnh Hồng Kông và Châu Á. Tại đó, đạo diễn trẻ người Hồng Kông Trần Khả Tân đã cho ra đời công ty Applause Pictures với mục đích phát triển và sản xuất các bộ phim đa quốc gia Châu Á. Khác đôi chút với cái tên tương tự tại Châu Âu, lý do cho ý tưởng hợp tác này nhằm giảm đáng kể tài trợ của nhà nước bằng việc cho ra đời các tác phẩm vượt qua rào cản pháp lý tại các quốc gia khác nhau để đến được với công chúng ở đó. Mặt khác, Trần còn dự định sẽ sử dụng các tài năng hàng đầu mỗi nước để tạo nên những siêu phẩm có sức hút toàn bộ Châu Á, điều cũng khiến phim được các nhà phân phối địa phương hỗ trợ nhiều hơn, và như Có lẽ yêu (Perhaps Love) của Trần, đủ điều kiện để phát hành tại đại lục mà không bị hạn chế chỉ tiêu nhập khẩu.
      Tự dán nhãn Europudding (thuật ngữ dùng để chỉ sự hợp tác điện ảnh Châu Âu ra đời vào năm 1990), các sản phẩm đầu ra của công ty Applause đã có một số thành công rực rỡ. Trong số này phải kể đến Một ngày xuân tươi đẹp (One Fine Sping Day), sản phẩm hợp tác giữa Hồng Kông, Nhật Bản và Hàn Quốc với sự tham gia của nữ diễn viên rất được mến mộ Lee Young Ae, do Hur Jin-ho đạo diễn hay Kiến Quỷ (The Eye), bộ phim kinh dị xuất sắc lạnh xương của hai anh em nhà Pang; Danny và Oxide, với diễn xuất của ngôi sao Malaysia Lý Tâm Khiết. Mô hình này cũng mở đường cho hàng loạt tác phẩm khác học theo mà điển hình là Thất Kiếm hay Dạ Yến.
      Sự mở rộng hợp tác sản xuất này cũng giúp các hãng phim độc lập như Twins (Nhật) hay Boram Entertainment (Hàn Quốc) lớn mạnh và phát triển, được xem tương đương với chuẩn mực Châu Âu. Các công ty này không có nguồn vốn dồi dào tự có, nhưng thay vì trở thành nhà thầu phụ cho các công ty điện ảnh giàu có hơn, họ tiếp cận nguồn tiền bản xứ và liên kết với đối tác tương tự tại các quốc gia Châu Á để trở thành một  mạng lưới khổng lồ.
      Mô hình hợp tác sản xuất Châu Á như thế hiện đang đem lại nguồn ngân sách chưa từng có cho các bộ phim ở đây. Đó là Thích Mã (tựa tiếng Anh The Warlords) với kinh phí 40 triệu đô do Trần đạo diễn, một sản phẩm hợp tác giữa Hồng Kông và Trung Quốc; Tam Quốc (Three Kingdoms), kinh phí 30 triệu đô la do Hồng Kông, Trung Quốc và Hàn Quốc cùng tham gia; và Xích Bích (The Battle of Red Cliff) của Ngô Vũ Sâm với số tiền đầu tư kỷ lục hơn 70 triệu đô từ Nhật Bản, Đài Loan và Trung Quốc.


      Tuy nhiên, sự đa dạng về tài chính này không kèm theo quá trình phát triển đồng bộ. Trong khi Xích Bích được một công ty bán hàng quốc tế lớn có trụ sở tại Mỹ, Summit Entertainment, đỡ đầu, tham vọng bộ phim sẽ làm mưa làm gió tại nhiều thị trường khác nhau thì Tam Quốc bắt đầu mà chẳng kèm theo công ty bán hàng lớn nào để đưa bộ phim ra ngoài Châu Á, còn Thích Mã lại được điều hành bởi một công ty mới nổi, Applause Ruddy Morgan.
      Bên cạnh đó, cho dù sự hợp tác này đã diễn ra và trên thực tế các nhà tài chính và sản xuất đang tham dự hàng loạt hội thảo tại các liên hoan và thị trường phim Châu Á nhưng việc sử dụng nguồn tài chính đa dạng vẫn còn nhiều giới hạn. Nguyên nhân chủ yếu là do gánh nặng không cân đối giữa chi phí của bản thân bộ phim và các vấn đề pháp lý; lối kinh doanh Châu Á điển hình “cam kết bằng lời nói” và những bất đồng về các kỹ thuật có liên quan. Hơn nữa, các nhà sản xuất phim Châu Á vẫn chủ yếu sử dụng nguồn vốn của mình hoặc của các tập đoàn giàu có rồi kết hợp điều này với các nhà tư vấn mà không nhờ một công ty bán hàng chuyên nghiệp.
      Nhưng có thể đến nay điều này đang thay đổi. Gần 10 quỹ đầu tư có quy mô từ 75 triệu đến 200 triệu đô la đang tích cực tìm đến các nhà sản xuất truyền hình và điện ảnh trong vùng đồng thời với những cố gắng đem tiền lại từ Mỹ và các nguồn Châu Á khác.
      Điển hình là quỹ Magnet Media, một sự kết hợp giữa công ty cổ phần tư nhân Hồng Kông Aquitaine với Regent MB, nhà đầu tư điện ảnh có trụ sở tại Los Angeles, và quỹ Ambassador Media Partners do Ian Jessel, cựu chủ tịch Miramax Intl điều hành. Cả hai quỹ này đều huy động vốn từ cổ phần tư nhân rồi tìm cách rót nguồn tiền ấy vào các công ty và mua cổ phần trong các bộ phim. Động thái này chứng tỏ các nhà tài chính đã nhận ra sở thích khán giả đang có xu hướng toàn cầu và các bộ phim Châu Á có thể đến được nhiều vùng trên thế giới.  
      Song những người làm nghề kỳ cựu trong ngành này lại lo rằng chẳng có đủ tác phẩm lớn để thu hút được nguồn vốn như thế. “Các quỹ này đều đang cùng nhắm tới một số bộ phim của Hồng Kông và đại lục. Không có nhiều cơ hội lắm để tìm kiếm và cũng không đủ tài năng đã được ghi nhận toàn cầu giúp thay đổi điều này nhanh chóng”.
      Tuy nhiên, thực tế ấy không làm nản lòng các nhà đầu tư, những người ngoài việc gia tăng tài chính còn mang vào đây quyền lực tiếp thị.  
      Tại Nhật, hai đối thủ truyền hình Fuji TV và Tokyo Broadcasting Systems đã đồng thời tiến hành các bước đột phá ngoạn mục vào lĩnh vực tài trợ điện ảnh. Với các bộ phim như Vụ tống tiền ở Bayside (Bayside Shakedown) và Dororo, họ đã đẩy cao ngân sách làm phim và khai thác hình ảnh các ngôi sao truyền hình quen thuộc. Còn Dentsu, một công ty quảng cáo khổng lồ có hẳn một chiến lược phát triển lâu dài trong việc tài trợ sản xuất phim. 
      Tại Đài Loan, CMC Entertainment, một chi nhánh của CMC Magnetics Corp., hiện đang đẩy mạnh vai trò tài trợ điện ảnh của nó khi đang tìm cách cung cấp phim cho các hệ thống rạp hát hàng đầu Đài Loan Vie Show Cinemas và Deltamac, công ty giải trí gia đình có chi nhánh tại cả Hồng Kông, Đài Loan lẫn đại lục.
      Tại Hồng Kông, nơi đài truyền hình miễn phí TVB từng là một thế lực lớn, các hoạt động điện ảnh cũng đang tiến triển nhộn nhịp. Công ty truyền hình cáp Hồng Kông, i- Cable, đã cho phép chi nhánh Sundream Motion Picture của nó, ngoài việc tài trợ còn được tham gia sản xuất, phân phối tại Hồng Kông và bán hàng quốc tế. Phấn chấn từ sự đầu tư thành công vào công ty First Cuts của Lưu Đức Hoa và thương vụ Vô gian đạo, Fortune Star, chi nhánh của News Corp tại Hồng Kông hiện đang tiếp tục đầu tư vào các bộ phim có ngân sách thấp hoặc trung bình tại các nước nói tiếng Trung ở Châu Á.
      Các nhà sản xuất phim ở đây đang có hàng loạt lựa chọn tài chính để triển khai các dự án của mình.

Đăng Ngọc
Theo Variety

    Nổi bật
        Mới nhất
        Vốn “tự có” của điện ảnh Châu Á
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO