Việt sử giai thoại: Chuyện không lời bàn về cụ Phúc Mại
Phúc Mại là hiệu chứ không phải tên, còn tên cụ là gì chưa rõ. Cụ người họ Nguyễn, quán xã Vịnh Cầu, huyện Đông Ngàn(1). Sách Công dư tiệp ký (quyển 1) của Tiến sỹ Vũ Phương Đề viết về cụ như sau:
“Cụ dựng nhà tại xã Đông Lâu, huyện Yên Phong(2), sống bằng nghề nấu rượu. Gia đình hàng xóm gần nơi cụ ở có cây bồ đề lâu năm, một hôm, chẳng may bị bão đánh đổ nên cụ xin mua để lấy củi nấu rượu. Khi đào gốc, cụ thấy có ba hũ bạc, bèn lẳng lặng đem về giấu kín, không cho ai biết. Ít lâu sau, cụ dời nhà đi chỗ khác.
Bỗng độ ba bốn năm sau, chẳng dè có người từ Trung Quốc đi sang, tìm đến chỗ chôn bạc của tổ tiên thì thấy dấu cũ còn đó, lỗ chôn bạc cũng còn đó mà các hũ bạc thì đã biến đâu mất. Ông bèn hỏi những gia đình bên cạnh, thì ai cũng đoán rằng cụ nấu rượu năm trước đã lấy mất rồi. Ông bèn đến thẳng nhà cụ, xuất trình gia phả cùng các thứ giấy tờ, rồi thưa:
- Tổ tiên chúng tôi có chôn ít bạc ở đây, nay chúng tôi sang lấy, chẳng ngờ bạc đó đã về tay cụ. Chúng tôi chẳng dám trách cứ gì, duy chỉ xin cụ nghĩ lại, bởi vì nay mai chúng tôi đã phải trở về quê hương mà tiền lương đã cạn, mong cụ cảm thương mà giúp cho chút ít lộ phí. Chúng tôi nguyện chẳng dám quên ơn.
Phần cụ, từ khi đào được bạc cho tới lúc ấy, vẫn giấu kín một nơi, chưa hề đụng tới, chẳng rõ trong đó có bao nhiêu. Mở gia phả rồi kiểm tiền, thấy đúng con số đã ghi, cụ liền giữ khách ở lại, tiếp đãi ân cần rồi nói:
- Số bạc kia quả là tôi đã đào được nhưng vẫn giấu kín chứ chưa hề tiêu mất chút nào. Nay chú sang đây, tức là của lại trở về với chủ của nó. Tôi xin trao trả hết chứ chẳng giữ làm gì.
Người khách nghe cụ nói vậy, lòng như mở cờ, nhưng cũng chẳng dám nhận ngay, bèn nói:
- Thưa cụ, mấy hũ bạc này là của tổ tiên chúng tôi để lại nhưng nay trời đã trao cho cụ, tức là của cụ. Cụ ban cho chút ít để làm lộ phí đã là may lắm rồi, chúng tôi đâu dám nhận lại tất cả như thế.
Nói vậy nhưng cụ vẫn dứt khoát không nghe. Người khách bèn đề nghị đem chia đôi, cụ một nửa, họ một nửa, cụ cũng không chịu. Cụ nói:
- Tôi nào phải là người không biết quý tiền bạc, chỉ vì bạc đó không phải của mình, chẳng qua trời sai tôi giữ lại để đợi chủ đó thôi. Chú cứ nhận lấy đủ số đem về thì hơn.
Người khách biết không thể nài ép được, bèn nhận hết bạc đem về. Tới quê nhà, gặp ai ông ta cũng kể lại chuyện cụ già nước Nam giàu đức độ. Bấy giờ, có thầy địa lý rất giỏi, nghe chuyện cũng khen cụ là đấng hiếm có, rồi than:
- Tiếc là ta đã già chớ ví thử còn trai tráng, thế nào ta cũng quyết tìm hộ người ấy ngôi huyệt tốt để báo ơn.
Người Tàu nghe thầy địa lý nói thế thì khẩn khoản mời đi nhưng thầy địa lý đã quá già. Thầy nói:
- Ta có hai môn đệ cũng đã học được bí truyền, thôi thì tôi sai họ đi với bác vậy.
Cả ba cùng sang nước ta, tìm đến nhà cụ bán rượu, nhưng lúc ấy cụ đã mất được hơn một năm. Họ biện lễ phúng viếng rồi ra đi, mãi đến vài tháng sau mới quay trở lại, nói với người con trai của cụ rằng:
- Trước đây, chúng tôi chịu ơn của cụ rất nhiều mà không có cách gì để báo đáp lại. Nay tôi mời được hai thầy địa lý cùng sang đây và đã tìm được mấy ngôi huyệt tốt. Ngôi thứ nhất có núi chầu về, sau sẽ phát Đế Vương nhưng chỉ được một đời là hết. Ngôi thứ hai hình đóa sen, phát được một đời làm Phò Mã. Vậy, cậu nhận ngôi nào?
Cậu con trai của cụ đáp:
- Chúng tôi ở nơi thôn dã, không dám hy vọng cao xa, chỉ mong được ngôi nào đời đời phát văn nho là đủ.
Hai thầy địa lý đáp:
- Vậy thì có khó gì, chẳng cần tìm đâu xa cho mệt. Tôi thấy thôn nhà ta đây cũng có long mạch từ xã Cẩm Chương kéo đến, đi uốn khúc như hoàng xà, đến xã Vịnh Cầu thì ngóc lên, đột khởi thành hai cái gò, gò lớn bằng phẳng, gò nhỏ hơi cong. Thầy cả cho rằng huyệt kết ở gò lớn còn thầy hai không tin, bèn lặn lội mãi rồi quả quyết là huyệt kết ở cái gò nhỏ. Hai thầy không ai chịu ai, bèn họa lại kiểu đất, sai người đem về Trung Quốc để hỏi sư phụ của mình. Sư phụ coi bản đồ, nói rằng: Đó là kiểu hoàng xà thính cáp (nghĩa là con hoàng xà lắng nghe tiếng con nhái), mà lúc lắng nghe thì tinh thần tập trung hết ở lỗ tai, vậy thì huyết khí ở lỗ tai. Hai gò đất là hai tai, cái gò lớn mà phẳng là cái tai đã bị điếc, còn như cái gò nhỏ mà hơi cong là gò có khí tụ, tức là tai lành. Huyệt ở cái gò nhỏ.
Sau khi nhận được lời chỉ bảo của sư phụ, hai môn để lập tức bảo người con trai đem di cốt của cụ táng vào cái gò nhỏ. Ngôi huyệt tọa lạc ở hướng Cấn(3), trông ra hướng Khôn(4).
Đến đời thứ ba có ông Nguyễn Văn Huy đỗ ThámHoa khoa Kỷ Sửu (1529) thời nhà Mạc, làm quan đến chức Thượng Thư rồi về trí sỹ. Con thứ ba của Nguyễn Văn Huy là Nguyễn Trọng Quýnh đỗ Hoàng Giáp năm Đinh Mùi (1547), tức là năm Vĩnh Định thời Mạc Phúc Nguyên, sau cũng làm đến chức Thượng Thư. Người em của Nguyễn Trọng Quýnh là Nguyễn Đạt Thiện, mới 18 tuổi đã đỗ Hoàng Giáp khoa Kỷ Mùi (1559) niên hiệu Quang Bảo nhà Mạc, sau làm quan đến chức Đô Khoa(5). Em của Nguyễn Trọng Quýnh và Nguyễn Đạt Thiện là Nguyễn Hiển Tích đỗ Tiến sỹ khoa Ët Sửu, niên hiệu Thuần Phúc thời Lê trung hưng(6), sau làm quan đến chức Thị Lang”.
Sách trên còn thống kê thêm một loạt danh Nho thuộc hàng chắt chịu của cụ Phúc Mại nhưng thiết nghĩ, trích dịch ngần ấy cũng đủ kính nể lắm rồi. Chẳng hay, hậu duệ của cụ hiện thời ra sao, cũng chẳng hay, đọc đến đoạn này, bạn sẽ nghĩ gì về cái đức của người làm cha.
____________
1. Nay là thôn Vịnh Cầu, xã Đồng Nguyên, Tiên Sơn, Bắc Ninh.
2. Nay thuộc tỉnh Bắc Ninh.
3. Hướng Đông Bắc.
4. Hướng Tây Nam.
5. Nếu viết cho đầy đủ là Binh Khoa Đô Cấp Sự Trung.
6. Tức là năm 1565.