Cần có lộ trình tăng tỉ lệ sinh viên theo học ngành STEM
Phát biểu tại Tại Hội thảo khoa học “Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực khoa học, công nghệ, kỹ thuật, Toán học, thực hiện đột phá chiến lược về phát triển nguồn nhân lực theo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng”, tổ chức ngày 26.9, PGS.TS Nguyễn Danh Nam, Trưởng Ban Đào tạo, Đại học Thái Nguyên đã có những chia sẻ về thực trạng đào tạo nguồn nhân lực lĩnh vực STEM.
Theo PGS Nguyễn Danh Nam, quy mô và tỉ lệ sinh viên đại học theo học các lĩnh vực STEM ở Việt Nam thấp hơn so với một số nước trong khu vực và châu Âu, đặc biệt thấp đối với các ngành khoa học và toán học. Tính theo tỉ lệ dân số, số sinh viên đại học theo học các lĩnh vực STEM của Việt Nam chỉ đạt khoảng 55 sinh viên/vạn dân, thấp hơn nhiều lần so với các nước trong khu vực và châu Âu.
Tỉ lệ sinh viên theo học các lĩnh vực STEM tính trên tổng số sinh viên đại học của Việt Nam trong những năm gần đây dao động trong khoảng từ 27% - 30% và năm 2021 đạt khoảng 28,7%, thấp hơn nhiều so với một số nước trong khu vực và châu Âu như: Singapore (46%), Malaysia (50%), Hàn Quốc (35%), Phần Lan (36%), Đức (39%). Riêng đối với các ngành khoa học tự nhiên và toán học, tỉ lệ sinh viên theo học ở Việt Nam chỉ đạt xấp xỉ 1,5%, bằng 1/3 so với Phần Lan, 1/4 so với Hàn Quốc và 1/5 so với Singapore và Đức.
Trước thực trạng này, Việt Nam cần có lộ trình tăng tỉ lệ sinh viên theo học ngành STEM lên khoảng 60% để đào tạo nguồn tài năng thuộc lĩnh vực STEM, làm xúc tác cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
PGS Nam thông tin, trong 3 năm trở lại đây, quy mô tuyển mới đại học các ngành đào tạo thuộc các lĩnh vực STEM ở nước ta tăng khá nhanh, tuy nhiên chủ yếu do các lĩnh vực có nhu cầu nhân lực lớn từ công nghiệp như máy tính và công nghệ thông tin, công nghệ kỹ thuật, kiến trúc và xây dựng.
Trong giai đoạn 2019-2022, số tuyển mới sinh viên đại học các ngành đào tạo thuộc các lĩnh vực STEM tăng trung bình 10% mỗi năm, cao hơn so với mức tăng trưởng chung của thế giới là 6,5%.
Ba lĩnh vực có mức tăng trưởng trung bình hằng năm mạnh nhất là máy tính và công nghệ thông tin (17,1%), công nghệ kỹ thuật (10,6%) và kiến trúc và xây dựng (10,2%), thể hiện rõ nhất xu hướng nhu cầu nhân lực của các ngành kinh tế được quan tâm đầu tư và có mức tăng trưởng vượt trội (các ngành có mức tăng trưởng cao nhất liên quan tới chuyển đổi số, công nghiệp công nghệ số, công nghiệp cơ khí-ô tô, tự động hóa sản xuất, phát triển hạ tầng và logistics).
Đối với lĩnh vực toán học và thống kê, mức tăng trưởng đạt khoảng 22,6% (bao gồm các ngành toán ứng dụng, toán tin và khoa học dữ liệu). Các ngành này đều có liên quan đến chuyển đổi số, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương và cả nước.
Các ngành thuộc lĩnh vực kỹ thuật có mức tăng trưởng khoảng 5,3%, thấp hơn mức tăng trưởng trung bình của các ngành thuộc các lĩnh vực STEM. Bên cạnh đó, riêng lĩnh vực khoa học sự sống lại có mức tăng trưởng âm khoảng -2,5%.
Về số sinh viên theo học các lĩnh vực STEM trên 10.000 dân, Việt Nam có tỉ lệ tương đối thấp so với các nước khi chỉ đạt 55 sinh viên/10.000 dân.
“Do đó, chúng ta cần làm tốt hơn việc định hướng, tư vấn nghề nghiệp cho học sinh phổ thông và có cơ chế, chính sách phù hợp để thu hút sinh viên theo học các ngành đào tạo thuộc các lĩnh vực STEM trong thời gian tới”, PGS Nam đề xuất.
PGS Nam cho biết, hiện nay, có sự khác biệt rất lớn về quy mô đào tạo, số lượng và trình độ đội ngũ giảng viên, chất lượng tuyển sinh đầu vào giữa các trường đại học tham gia đào tạo nguồn nhân lực cho các lĩnh vực STEM.
Cụ thể, có khoảng 30 cơ sở giáo dục đại học (chiếm 20%) có quy mô đào tạo lớn hơn 6.000 sinh viên STEM và đóng góp gần 75% tổng số sinh viên STEM của cả nước. Trong khi đó, 75 cơ sở giáo dục đại học khác (chiếm 50%) có quy mô đào tạo nhỏ hơn 1.000 sinh viên và chỉ đóng góp dưới 5% tổng số sinh viên STEM toàn quốc.
Tổng số giảng viên tham gia đào tạo trình độ đại học các ngành STEM là 24.880 người, tỉ lệ sinh viên đại học/ giảng viên là 25,4:1, tương đương mức trung bình chung của tất cả lĩnh vực đào tạo khác.
Tỉ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ là 14.576 người, chiếm tỉ lệ 35,1% (cao hơn tỉ lệ chung xấp xỉ 32% của tất cả lĩnh vực), tuy nhiên tỉ lệ này chênh lệch rất lớn giữa các cơ sở đào tạo.
Đáng chú ý là 30 cơ sở giáo dục đại học đầu mối có đội ngũ giảng viên tiến sĩ lớn nhất đã đóng góp gần 75% số giảng viên có trình độ tiến sĩ tham gia đào tạo các ngành STEM, nhưng chỉ đào tạo xấp xỉ 68% số sinh viên STEM trong toàn quốc.
Về đào tạo sau đại học, quy mô đào tạo sau đại học các lĩnh vực STEM của nước ta cũng chiếm tỉ lệ rất nhỏ so với các nước phát triển và chiếm tỉ trọng rất thấp trong tổng quy mô đào tạo các trình độ thuộc các lĩnh vực STEM cũng như tổng quy mô đào tạo của tất cả các lĩnh vực.
Theo số liệu thống kê năm 2021 của Bộ GD-ĐT, số người học sau đại học thuộc các lĩnh vực STEM tính trên một vạn dân của Việt Nam đạt 2,2 người, chỉ xấp xỉ bằng 1/7 so với Hàn Quốc và Israel, chưa bằng 1/10 so với Singapore, 1/15 so với mức trung bình khối Liên minh Châu Âu và 1/20 so với Đức và Phần Lan.
Tính trên tổng quy mô đào tạo các trình độ của các ngành thuộc lĩnh vực STEM, quy mô đào tạo sau đại học năm 2021 chỉ chiếm tỉ trọng xấp xỉ 3,6%, thấp hơn mức trung bình chung 5,6% tính theo tất cả lĩnh vực.
PGS.TS Nguyễn Danh Nam đề xuất, cần có chiến lược đầu tư trọng tâm, trọng điểm tại một số cơ sở giáo dục đại học có uy tín đào tạo các nhóm ngành đào tạo trọng tâm đã xác định để tăng trưởng nhanh quy mô đào tạo, đặc biệt là đào tạo sau đại học đối với các ngành thuộc các lĩnh vực STEM như máy tính và công nghệ thông tin, công nghệ kỹ thuật, chế biến và sản xuất, kiến trúc và xây dựng.
Ngoài ra, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ các trường đại học trong đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao cho các lĩnh vực khoa học tự nhiên, toán học và thống kê, làm nền tảng cho sự phát triển của khoa học và công nghệ của đất nước.
3 giải pháp nâng cao đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực STEM
Tham luận tại Hội thảo, PGS.TS Bùi Hoài Thắng, Trưởng phòng Đào tạo, Trường Đại học Bách khoa - Đại học Quốc Gia TP. Hồ Chí Minh đã chia sẻ về giải pháp đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực STEM từ kinh nghiệm tại Trường Đại học Bách Khoa.
Theo PGS Thắng, từ nhận thức thực trạng của giáo dục đại học cũng như chất lượng đào tạo đại học tại Việt Nam, trong những năm gần đây, Trường Đại học Bách khoa - Đại học Quốc Gia TP. Hồ Chí Minh đã thực hiện nhiều giải pháp tổng thể để nâng cao đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật, Toán học (STEM) tại trường. Trong đó, có 3 giải pháp chính.
Giải pháp thứ nhất là cấu trúc chương trình đào tạo chú trọng đến đặc trưng STEM và quốc tế hóa. Khi Luật số 34 được ban hành, nhà trường đã tái cấu trúc chương trình đào tạo của các ngành của trường theo triết lý giáo dục “Khai phóng - Tiên phong - Sáng tạo”, đa ngành, liên ngành, cung cấp cho người học kỹ năng và tư duy khám phá, định vị bản thân, thích ứng với tiêu chuẩn mới của bối cảnh hội nhập toàn cầu.
Cụ thể, một chương trình đào tạo bao gồm: Khối kiến thức liên ngành; Khối kiến thức Toán và Khoa học tự nhiên; Một số tín chỉ tự chọn tự do, không ràng buộc vào ngành học của sinh viên, cho phép sinh viên chọn học theo các hướng: học sâu, học rộng, học cao; Các học phần thực tập ngoài trường tại các doanh nghiệp; Các học phần tốt nghiệp, thực hiện trong 2 học kỳ.
Ngoài ra, trường còn yêu cầu tất cả các học phần “lý thuyết” đều có tỷ lệ thành phần thực hành/thực tập/bài tập lớn/đồ án thành phần chiếm khoảng 1/3 khối lượng học tập của học phần để gia tăng trải nghiệm của sinh viên, nâng cao năng lực thực hành, thực tập, nâng cao kỹ năng người học và gia tăng chất lượng chuyển hoá nội dung học tập trở thành kiến thức và năng lực cá nhân. Để phù hợp với bối cảnh quốc tế và chiến lược quốc tế hóa, nhà trường đã tăng cường các chính sách hỗ trợ cải tiến chương trình.
Giải pháp thứ hai là giảng viên nước ngoài và công tác trao đổi giảng viên, sinh viên. Theo đó, Trường Đại học Bách khoa xác định, Quốc tế hóa Giáo dục đại học là chìa khóa trong công tác đào tạo nguồn nhân lực có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế. Nhà trường chú trọng đẩy mạnh chính sách quốc tế hóa trong giáo dục đại học theo xu hướng “at home”.
Theo PGS Thắng, quốc tế hóa giáo dục đại học đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục đại học, đào tạo ra những công dân toàn cầu, thu hút sinh viên quốc tế đến học tập và các nhà khoa học, giáo sư giỏi trên thế giới đến làm việc, nghiên cứu tại Việt Nam; đồng thời nâng cao thứ hạng của Việt Nam trên thế giới trong lĩnh vực giáo dục.
Ngoài ra, Trường Đại học Bách khoa xây dựng chính sách phát triển hoạt động đối ngoại để các đơn vị thực hiện. Các chính sách thúc đẩy hoạt động đối ngoại của trường tập trung vào 3 lĩnh vực chính là đào tạo, nghiên cứu khoa học và phục vụ cộng đồng.
Giải pháp thứ 3 là kiểm định quốc tế. Về kiểm định cấp cơ sở đào tạo, Trường Đại học Bách khoa đã đạt kiểm định theo tiêu chuẩn AUN-QA và chuẩn kiểm định HCERES vào năm 2017 và đang tái kiểm định năm 2023.
Về kiểm định cấp chương trình đào tạo, trong năm 2021 và năm 2022, nhà trường đã có 5 chương trình đào tạo đạt kiểm định theo tiêu chuẩn AQAS, 11 chương trình đào tạo đạt kiểm định theo tiêu chuẩn ASIIN và 2 chương trình đào tạo đạt kiểm định theo tiêu chuẩn FIBAA.
Tính đến tháng 7/2023, Nhà trường đã có tổng cộng 52 chương trình đào tạo (48 chương trình đào tạo bậc đại học; 4 chương trình đào tạo bậc thạc sĩ) đạt kiểm định chất lượng theo các bộ tiêu chuẩn kiểm định quốc tế khác nhau.
Cùng với đó, trường tăng cường củng cố và gia tăng chất lượng đào tạo, gắn chặt chẽ các chương trình đào tạo với nhu cầu của xã hội, đẩy mạnh công tác bảo đảm chất lượng và kiểm định quốc tế, đẩy mạnh liên kết với doanh nghiệp và người sử dụng lao động trong công tác đào tạo và việc làm, giữ vững và tăng cường công tác cựu sinh viên, mở rộng và tăng cường chất lượng các chương trình tiếng Anh, thu hút người nước ngoài đến học tại trường, đẩy mạnh các chương trình trao đổi giảng viên, sinh viên với các trường hàng đầu thế giới.
PGS Thắng chia sẻ, nhận thức rõ được thực trạng của giáo dục đại học cũng như chất lượng đào tạo đại học tại Việt Nam, Trường Đại học Bách khoa trong những năm gần đây đã thực hiện nhiều giải pháp tổng thể để nâng cao chất lượng đào tạo đại học tại trường.
Các kinh nghiệm thực hiện tại Trường Đại học Bách khoa trong giai đoạn vừa qua có thể được xem như là ví dụ điển hình, để áp dụng rộng rãi hơn trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và khoa học công nghệ phát triển không ngừng.
Theo ông Vũ Thanh Mai, Phó trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực STEM là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ, nguồn nhân lực STEM có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Phó trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương cho hay, Hội thảo khoa học “Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực Khoa học, Công nghệ, Kĩ thuật, Toán học (STEM), thực hiện đột phá chiến lược về phát triển nguồn nhân lực theo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng” là hội thảo quan trọng, có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc, góp phần thúc đẩy công tác đào tạo nguồn nhân lực STEM của đất nước trong thời gian tới.
Ông Vũ Thanh Mai nhấn mạnh, kết quả của Hội thảo là cơ sở khoa học quan trọng để Ban Tuyên giáo Trung ương tiếp tục nghiên cứu, tham mưu cho Trung ương Đảng về chủ trương, đường lối trong đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực Khoa học, Công nghệ, Kĩ thuật và Toán học.
Từ đó, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển đất nước “đến năm 2030, là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, trở thành nước phát triển, thu nhập cao” đã nêu trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng.