Vai trò lãnh đạo của Đảng và nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước là những nội dung đặc biệt quan trọng, cốt lõi của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Hiến pháp năm 2013), được thể hiện ngay tại Chương I về chế độ chính trị. Trong khuôn khổ của Tọa đàm này, tôi xin chia sẻ, cung cấp thông tin về kinh nghiệm của Việt Nam trong việc thể chế hóa vai trò lãnh đạo của Đảng và nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước trong quá trình xây dựng, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp như sau:
1. Việc thể chế hóa vai trò lãnh đạo của Đảng trong Hiến pháp
Vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội đã được ghi nhận và khẳng định trong tất cả các bản Hiến pháp của Việt Nam, từ Hiến pháp năm 1959 đến nay. Sở dĩ Hiến pháp năm 1946 - bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chưa quy định về vai trò của Đảng là do tình thế đặc biệt của cách mạng lúc bấy giờ[1].
Hiến pháp năm 1959 đã ghi nhận vai trò của Đảng (lúc đó có tên gọi là Đảng Lao động Việt Nam) trong Lời nói đầucủa Hiến pháp; các bản Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013 đều hiến định công khai, rõ ràng về vị trí, vai trò của Đảng tại Lời nói đầu và tại Điều 4 của các bản Hiến pháp này.
Đặc biệt, Hiến pháp năm 2013 đã có những bổ sung quan trọng, tiếp tục khẳng định tính lịch sử, tính tất yếu khách quan sự lãnh đạo của Đảng đối với quá trình cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, phù hợp với Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011). Cụ thể như sau:
Thứ nhất,Hiến pháp năm 2013 đã nhận diện rõ hơn, đầy đủ hơn bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam, đó là: Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là đội tiên phong của giai cấp công nhân mà đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Việc bổ sung ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 về Đảng với vai trò đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam không chỉ khẳng định sự thừa nhận của Nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng mà quan trọng hơn, chính là sự giao trách nhiệm của Nhân dân cho Đảng, đặt Đảng ở vị thế phải phấn đấu, nỗ lực nhiều hơn nữa trong vị trí tiên phong của mình.
Thứ hai,Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng cầm quyền duy nhất đối với Nhà nước và xã hội.Quy định về Đảng trong Hiến pháp nhằm khẳng định tính chính đáng của Đảng trong việc lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội, đồng thời cũng là cơ sở ràng buộc trách nhiệm pháp lý đối với Đảng. Việc tiếp tục hiến định vai trò lãnh đạo của Đảng trong Hiến pháp là cần thiết và tất yếu khách quan, bởi vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp đấu tranh giành chính quyền, xây dựng và phát triển của đất nước đều đã được khẳng định cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn. Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng chính trị duy nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội. Điều đó xuất phát từsự tín nhiệm của Nhân dân đối với Đảng Cộng sản Việt Nam qua hơn 90 năm đấu tranh cách mạng vì độc lập, tự do và tiến bộ xã hội, vì sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước.
Thứ ba, Hiến pháp năm 2013 xác định rõ trách nhiệm của Đảng trong mối liên hệ với Nhân dân, nhấn mạnh Đảng phải gắn bó mật thiết với Nhân dân, phải phục vụ Nhân dân, phải chịu sự giám sát của Nhân dân và phải chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình.
Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân vừa là đặc điểm cơ bản vừa là yêu cầu thiết yếu của một Đảng cách mạng lấy lợi ích của Nhân dân làm mục tiêu và định hướng cho mọi hoạt động của Đảng. Quy định trong Hiến pháp năm 2013 vừa khẳng định một sự thật khách quan về Đảng Cộng sản Việt Nam trong mối quan hệ với Nhân dân, vừa đặt ra trách nhiệm hiến định to lớn của Đảng trong việc không ngừng củng cố, tăng cường và phát triển mối quan hệ này, xem đó là nguồn mạch của sự sống còn của Đảng trong điều kiện Đảng trở thành Đảng cầm quyền.
Đảng chịu sự giám sát của Nhân dân thể hiện ý nghĩa to lớn trên phương diện chính trị - pháp lý. Mặc dù ở vị trí của một Đảng cầm quyền, nhưng Đảng không đứng trên Nhân dân, không đứng trên Hiến pháp và pháp luật mà tự đặt mình trong sự kiểm soát của toàn thể Nhân dân và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật.
Đảng phải chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình, trong đó,trách nhiệm trước hết và quan trọng nhất là trách nhiệm chính trị. Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, chịu trách nhiệm về sự lãnh đạo của mình là một lẽ đương nhiên, bởi quyền lãnh đạo phải luôn gắn liền với trách nhiệm, đặc biệt là trách nhiệm trước kết quả lãnh đạo xây dựng và phát triển đất nước.
Thứ tư, Hiến pháp năm 2013 khẳng định không chỉ các tổ chức của Đảng mà tất cả đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam đều phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Mặc dù là Đảng cầm quyền, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam luôn tự đặt mình dưới quyền lực của Hiến pháp và pháp luật, tự giác hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật. Quy định trên của Hiến pháp năm 2013 vừa bảo đảm được tinh thần thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, tránh được hiện tượng lạm quyền, chuyên quyền của các tổ chức đảng và cá nhân đảng viên.
2. Việc thể chế hóa nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong Hiến pháp
Nhà nước là trụ cột của hệ thống chính trị, là công cụ tổ chức thực hiện ý chí và quyền lực của Nhân dân, thay mặt Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân để quản lý hoạt động của đời sống xã hội. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân”.
Cụ thể hóa Cương lĩnh, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định: Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp (Điều 2). Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ (khoản 1 Điều 8). Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân (Điều 3).
Thứ nhất, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định quan điểm về xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, đó là Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Theo đó, Việt Namchủ trương xây dựng một Nhà nước pháp quyền vừa mang các đặc trưng phổ biến của Nhà nước pháp quyền nói chung với tư cách là một giá trị nhân loại, vừa thể hiện các giá trị đặc thù của Việt Nam.
Thứ hai, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục kế thừa nguyên tắc: tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân đã được thể hiện nhất quán trong các bản Hiến pháp trước đây của Việt Nam. Theo đó, Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước. Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, như việc bầu cử và bãi nhiệm đại biểu cơ quan dân cử, thực hiện quyền làm chủ ở cơ sở, trưng cầu ý dân hoặc thông qua các cơ quan nhà nước, các đại biểu dân cử do mình bầu ra, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và thông qua việc tham gia vào các công việc của Nhà nước và xã hội...
Thứ ba, Hiến pháp khẳng định quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lậppháp, hành pháp, tư pháp. Trước đó, Hiến pháp năm 1992 quy định: quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp mà chưa quy định việc kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan này. Vì vậy, việc bổ sung nội dung kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp đã góp phần làm hoàn thiện hơn nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước. Với sự hoàn thiện này, nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước ở Việt Nam được xác định bởi 4 nội dung quan trọng: thống nhất quyền lực, phân công quyền lực, phối hợp quyền lực, kiểm soát quyền lực.
Tính thống nhất của quyền lực nhà nước được xác định bởi chính chủ thể duy nhất và tối cao của quyền lực là Nhân dân. Quyền lực tập trung ở Nhân dân, Nhân dân ủy quyền cho bộ máy nhà nước những phạm vi quyền hạn nhất định. Tính thống nhất của quyền lực nhà nước còn được xác định và đảm bảo bởi tính hệ thống của quyền lực nhà nước. Bởi quyền lực nhà nước là một phạm trù phức tạp, bao gồm nhiều nội dung quan hệ mật thiết với nhau và được thể hiện thông qua 3 bộ phận quyền cơ bản: quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Ba quyền này hợp thành một hệ thống thống nhất, vừa phân định với nhau, vừa lệ thuộc vào nhau, chi phối, tương tác lẫn nhau trong hoạt động của các cơ quan nhà nước.
Phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước được ghi nhận và thể hiện cụ thể tại các chương về tổ chức bộ máy trong Hiến pháp (Chương V, VI, VII, VIII và IX), tạo cơ sở hiến định cho việc tiếp tục thể chế hóa trong các quy định của các luật có liên quan. Để thực hiện được mục tiêu kiểm soát quyền lực, Hiến pháp năm 2013 đã điều chỉnh lại một số nhiệm vụ, thẩm quyền của các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp, qua đó hoàn thiện mối quan hệ quyền lực giữa các cơ quan này để vừa bảo đảm sự thống nhất của toàn bộ bộ máy nhà nước, vừa đảm bảo vị trí, vai trò của từng thiết chế quyền lực từ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án Nhân dân, Viện Kiểm sát Nhân dân, chính quyền địa phương đến các thiết chế hiến định độc lập. Cụ thể:
- Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, là cơ quan thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước
- Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hòa XHCN Việt Nam về đối nội và đối ngoại. Cùng với đó, Hiến pháp đã xác định rõ hơn mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp.
- Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội.
- Tòa án Nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp.Viện Kiểm sát Nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm soát hoạt động tư pháp.
Trong mối quan hệ kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan,nếu lấy chế định Chủ tịch nước làm trung tâm, thì trong mối quan hệ với Quốc hội: Chủ tịch nước có thẩm quyền công bố Hiến pháp, luật, pháp lệnh và đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh (khoản 1 Điều 88); trong mối quan hệ với Chính phủ: Chủ tịch nước có thẩm quyền đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ tướng Chính phủ; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ (khoản 2 Điều 88); tham dự các phiên họp của Chính phủ, yêu cầu Chính phủ bàn về vấn đề mà Chủ tịch nước xét thấy cần thiết để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước (Điều 90)…; trong mối quan hệ với Tòa án Nhân dân, Viện Kiểm sát Nhân dân: Chủ tịch nước có quyền đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh án Tòa án Nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao (khoản 3 Điều 88); bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án Nhân dân tối cao căn cứ vào nghị quyết phê chuẩn của Quốc hội; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán các Tòa án khác để phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp (khoản 3 Điều 88)...
- Chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính, có nhiệm tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật tại địa phương; quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước cấp trên.
- Ngoài ra, Hiến pháp năm 2013 đã hiến định một số thiết chế độc lập như Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước nhằm tăng cường cơ chế kiểm soát quyền lực trong bộ máy nhà nước. Việc bổ sung các thiết chế hiến định độc lập trong Hiến pháp năm 2013 là một bước phát triển của bộ máy nhằm đáp ứng một cách hiệu quả yêu cầu của chế độ pháp quyền trong điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Thứ tư,bằng việc quy định nguyên tắcNhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, Hiến pháp năm 2013 đã làm rõ hơn tính pháp quyền XHCN của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Nguyên tắc này thể hiện:
- Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, tôn trọng và bảo vệ Hiến pháp. Sự hiện diện của Hiến pháp là điều kiện quan trọng nhất bảo đảm sự ổn định xã hội và sự an toàn của người dân.
- Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam quản lý xã hội bằng pháp luật, bảo đảm vị trí tối thượng của pháp luật trong đời sống xã hội. Pháp luật phải trở thành phương thức quan trọng đối với tổ chức và hoạt động của Nhà nước và là thước đo giá trị phổ biến của xã hội: công bằng, dân chủ, bình đẳng. Tất cả các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật.
- Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Tập trung dân chủ có thể xem là nguyên tắc đặc thù của mô hình bộ máy nhà nước XHCN. Với nguyên tắc này, toàn bộ bộ máy nhà nước đều được tổ chức và hoạt động trong sự phối kết hợp giữa các yếu tố dân chủ và tập trung với hàng loạt các hình thức và chế độ như: bầu cử, bổ nhiệm kết hợp với phê chuẩn một số chức danh trong bộ máy; mô hình tổ chức hội đồng, ủy ban để kết hợp chế độ tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; thiểu số phục tùng đa số; cấp dưới phục tùng cấp trên; thảo luận dân chủ, quyết định theo đa số...
Thứ năm, Hiến pháp năm 2013 khẳng định Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Đây vừa là đặc trưng cũng vừa là nguyên tắc trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, thể hiện một trong những sứ mệnh hàng đầu đặt ra cho tất cả các hình thức Nhà nước pháp quyền là phải bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
Để bảo đảm thực hiện nguyên tắc này, Hiến pháp năm 2013 đã cụ thể hóa thành các nguyên tắc, đường lối cơ bản như: quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng (Điều 14); mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội (Điều 16),…
3. Việc triển khai trên thực tế nguyên tắc hiến định Đảng lãnh đạo đối với Nhà nước và xã hội trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
Nhà nước pháp quyền mà Việt Nam đang xây dựng là Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; có hệ thống pháp luật hoàn thiện, được thực hiện nghiêm minh, nhất quán; thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ hiệu quả quyền con người, quyền công dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, được phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ, kiểm soát hiệu quả; nền hành chính, tư pháp chuyên nghiệp, pháp quyền, hiện đại; bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực, thực sự chuyên nghiệp, liêm chính; quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả[2].
Trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 2013, Quốc hội đã ban hành đầy đủ, đồng bộ các đạo luật về tổ chức bộ máy nhà nước để phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan và cơ chế thực thi quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp như: Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 (được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2020) và một số đạo luật khác để cụ thể hóa các nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội như Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020), Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015, Luật Trưng cầu ý dân năm 2015… Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015 (sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2019), Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2019); Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 (vừa được thay thế bằng Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2024), Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Luật Tố tụng hành chính năm 2015, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015, Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015…
Đồng thời, để cụ thể hóa nguyên tắc Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước, Quốc hội đã ban hành Luật Trưng cầu ý dân năm 2015, tạo khuôn khổ pháp lý cho người dân tham gia chủ động, tích cực vào việc quyết định các công việc của Nhà nước và xã hội phù hợp với bản chất của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, góp phần tạo cơ sở pháp lý đồng bộ và những điều kiện thuận lợi để người dân trực tiếp thể hiện ý chí và quyền lực của mình đối với các vấn đề quan trọng của đất nước, đáp ứng nhu cầu khách quan trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Tiếp đó, Quốc hội cũng thông qua Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015 nhằm cụ thể hóa các quy định mới của Hiến pháp năm 2013, góp phần quan trọng thực hiện thành công cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV, khóa XV và bầu cử đại biểu HĐND các cấp (nhiệm kỳ 2016 - 2021 và nhiệm kỳ 2021 - 2026). Quốc hội cũng thông qua Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022 quy định nội dung, cách thức thực hiện dân chủ ở cơ sở, quyền và nghĩa vụ của công dân trong thực hiện dân chủ ở cơ sở và trách nhiệm của cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân trong việc bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở.
Về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, theo Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011)và trên thực tế, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước bằng các phương thức như: Đảng đề ra cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; thông qua công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát; thông qua công tác cán bộ; thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị.
Trong phạm vi bài tham luận này, tôi xin minh họa cụ thể về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với hoạt động của Quốc hội như sau:
Một là, thông qua việcđề ra cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn: Trong thời gian qua, Quốc hội đã làm tốt nhiệm vụ thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã quy định nội dung thẩm tra bắt buộc về sự phù hợp của nội dung dự thảo văn bản với đường lối, chủ trương của Đảng. Đảng đoàn Quốc hội đã phát huy vai trò tích cực, chủ động trong việc lãnh đạo, chỉ đạo đối với hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội.
Hai là,thông qua công tác cán bộ: Đối với Quốc hội, sự lãnh đạo của Đảng trong công tác cán bộ được thể hiện như sau: (1) Trước mỗi kỳ bầu cử đại biểu Quốc hội, Đảng đoàn Quốc hội xây dựng đề án về các nội dung lớn của cuộc bầu cử, trình Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương cho ý kiến; trên cơ sở đó, triển khai nghiêm túc kết luận của Bộ Chính trị về đề án bầu cử. (2) Đảng lựa chọn, giới thiệu người đủ đức, đủ tài tham gia vào Ủy ban Thường vụ Quốc hội, vào Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội và các cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội. (3) Vai trò của Bí thư, Phó Bí thư Đảng đoàn Quốc hội và Đảng đoàn Quốc hội trong việc chịu trách nhiệm trước Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về kết quả hoạt động của Quốc hội được đề cao. (4) Hình thành tổ chức đảng (Tổ đảng) ở Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội để gắn kết, quản lý chặt chẽ đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách ở các cơ quan của Quốc hội, cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội,…
Ba là, thông qua công tác tuyên truyền, vận động: Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Quốc hội thông qua cử tri, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng, ý chí của Nhân dân, vận động Nhân dân tích cực tham gia xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, đặc biệt là vận động Nhân dân thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Đại biểu Quốc hội là cầu nối giữa cử tri và Quốc hội, lắng nghe tiếng nói của cử tri về những vấn đề phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, tập hợp những ý kiến đó, chuyển tải đến Đảng; đồng thời, tập hợp, vận động Nhân dân thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Công tác dân nguyện được Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội quan tâm, chỉ đạo, không chỉ tham mưu thực hiện tốt công tác dân nguyện của Quốc hội, mà còn chủ động tiếp nhận, phân loại và xử lý đơn, thư của công dân, đi sâu phân tích, đánh giá kiến nghị cử tri, đôn đốc các cơ quan giải quyết kiến nghị của cử tri; qua đó nắm bắt tâm tư, ý chí, nguyện vọng của Nhân dân về các chủ trương, đường lối, chính sách và thông qua Ủy ban Thường vụ Quốc hội kịp thời chuyển tải đến các cơ quan lãnh đạo của Đảng ở Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư...
*
* *
Trên đây là một số nội dung về việc thể chế hóa tư tưởng chỉ đạo của Đảng về vai trò lãnh đạo của Đảng và nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước trong Hiến pháp.
Trong thời gian tới, trên cơ sở chủ trương, định hướng của Đảng và quy định của Hiến pháp năm 2013, Việt Nam sẽ tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo trong giai đoạn mới.
Đồng thời, chúng tôi cũng tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng đối với Nhà nước, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, thống nhất của Ðảng, phát huy trách nhiệm, tính chủ động, sáng tạo và hiệu lực, hiệu quả trong quản lý, điều hành của Nhà nước; cụ thể hóa, thể chế hóa và thực hiện tốt cơ chế “Ðảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” và phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Hy vọng rằng, những nội dung chia sẻ này sẽ giúp cung cấp thêm thông tin hữu ích trong quá trình sửa đổi, bổ sung Hiến pháp của CHDCND Lào.
_______________
[1]Cuối năm 1945, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ra tuyên bố tự giải tán, nhưng sự thật là rút lui vào hoạt động bí mật, giữ vững vai trò lãnh đạo nhân dân đánh thắng thực dân, đế quốc xâm lược và hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Mọi hoạt động công khai của Đảng khi đó đều thông qua Mặt trận Việt Minh.
[2] Theo Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 9.11.2022 Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới.