Trước hết, trong khi các kênh đầu tư truyền thống như chứng khoán, bất động sản không ổn định, lãi suất tiền gửi ngân hàng liên tục giảm…, dòng tiền tìm nơi phòng vệ như vàng và ngoại tệ (như USD) - điều này khiến giá vàng và USD tăng lên.
Ngoài ra, việc giá USD trong nước tăng cao trong 2 tháng đầu năm nay - một trong những nguyên nhân là vì đồng tiền này trên thế giới liên tục tăng lên. Nếu như đầu năm, chỉ số USD-Index ở mức 101,38 điểm thì hiện đã lên trên 104 điểm. Tuy Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đã đưa ra thông điệp có thể giảm lãi suất trong năm nay nhưng đến hiện tại vẫn chưa rõ thời điểm nào sẽ bắt đầu giảm. Lãi suất ở Mỹ vẫn duy trì ở mức cao khi lạm phát tháng 1.2024 là 3,1%, thấp hơn mức 3,4% tháng 12.2023 nhưng còn cách xa mục tiêu giảm xuống 2% mà FED đưa ra. Cơ quan này vẫn duy trì quan điểm chống lạm phát, đồng nghĩa vẫn tiếp tục giữ chính sách tiền tệ thắt chặt. Điều này phần nào gây áp lực lên tỷ giá hối đoái của nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Bên cạnh đó, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tính chung 2 tháng đầu năm 2024 ước đạt 54,62 tỷ USD, tăng 18% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 59,34 tỷ USD, tăng 19,2% so với cùng kỳ năm trước (khu vực kinh tế trong nước đạt 16,14 tỷ USD, tăng 33,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 43,2 tỷ USD, tăng 14,7%. Nhu cầu nhập khẩu cho sản xuất (cho chi phí trung gian và tích lũy gộp tài sản) chiếm khoảng 90% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa. Như vậy, do nhu cầu của các doanh nghiệp xuất khẩu có đơn hàng gia tăng nên việc nhập khẩu nguyên phụ liệu để sản xuất hàng cũng nhiều hơn, nhu cầu mua ngoại tệ để thanh toán tăng lên, từ đó làm tỷ giá tăng theo.
Nhập khẩu hàng hóa gia tăng là tin tốt cho nền kinh tế nhưng trong ngắn hạn cũng góp phần gây áp lực cho tỷ giá hối đoái. Ngoài ra, cũng không loại trừ yếu tố đầu cơ. Khi những nhà đầu cơ nhận thấy tỷ giá có xu hướng tăng, họ sẽ tìm cách mua ngoại tệ và từ đó đẩy giá USD trên thị trường tự do cao hơn ngân hàng.
Xuất khẩu, nhập khẩu và lượng kiều hối tăng cao trong năm 2023 và có thể tăng hơn nữa trong năm 2024 cho thấy, những biến động về tỷ giá chỉ diễn ra trong ngắn hạn, không quá căng thẳng như đã từng diễn ra trước đây. Trong ngắn hạn, có thể tỷ giá tăng cao hơn 3%, thậm chí lên 4% nhưng sau đó sẽ giảm dần và cả năm cũng chỉ dao động ở biên độ xoay quanh 3%. Bởi nhiều khả năng năm nay Việt Nam vẫn duy trì xuất siêu hàng hóa, cán cân thương mại có thặng dư. Cùng với dòng vốn FDI cũng có nhiều tín hiệu lạc quan thì trạng thái căng thẳng chỉ diễn ra trong ngắn hạn. Thậm chí trong điều kiện cần thiết, nếu áp lực tỷ giá hối đoái lên cao thì Ngân hàng Nhà nước vẫn có dư địa để có thể sẽ tăng nhẹ lãi suất để đảm bảo tỷ giá ổn định.
Mặt khác, theo số liệu thống kê cho thấy chỉ số giá tiêu dùng (CPI) năm 2023 ở mức 3,25% là khá an toàn so với các nước trong khu vực và thấp hơn so với kế hoạch Quốc hội phê duyệt đầu năm (4 - 4,5%). Bước sang năm 2024, lạm phát của Việt Nam đề ra mục tiêu ở mức 4 - 4,5% và cũng được xem là một trong các yếu tố giúp ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì lòng tin đối với các nhà đầu tư trong nước và quốc tế. Do đó, cơ quan quản lý có thêm dư địa để giảm áp lực tỷ giá hối đoái và sẽ không có tình trạng biến động lớn.
Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam vẫn tiếp tục duy trì chính sách tiền tệ nới lỏng, chấp nhận để tỷ giá tăng ở mức độ vừa phải do lạm phát trong nước vẫn trong tầm kiểm soát, trong khi nền kinh tế cần tiếp tục được hỗ trợ phục hồi. Hơn nữa, khi chính sách tiền tệ toàn cầu bắt đầu nới lỏng, USD có xu hướng mất giá trên diện rộng và sẽ giảm áp lực lên tỷ giá trong nước.