Giám đốc ĐH Quốc gia Hà Nội đã ký Quyết định số 3638/QĐ -ĐHQGHN ban hành Quy chế đào tạo tiến sĩ tại ĐH Quốc gia Hà Nội. GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Trưởng Ban Đào tạo, Tổ trưởng Tổ biên soạn Quy chế cho biết, quy chế gồm 10 chương, 46 điều và đặc biệt chú trọng đến chuẩn đầu ra, chất lượng luận án tiến sĩ và công bố quốc tế. Chất lượng luận án, chất lượng nghiên cứu sinh, chất lượng của đội ngũ giảng viên hướng dẫn luận án là những yếu tố then chốt nhất.
Bên cạnh đó, Quy chế mới cũng cởi mở và thông thoáng hơn, trao quyền chủ động cho bộ môn, cho giảng viên hướng dẫn, tạo cơ hội cho các tiến sĩ (TS) – giảng viên trẻ xuất sắc và nghiên cứu sinh trong các hoạt động chuyên môn; đồng thời coi trọng các yếu tố đảm bảo chất lượng và các chế tài để giữ kỷ cương và chất lượng trong đào tạo.
GS Nguyễn Đình Đức thông tin, chúng tôi thống kê có đến hơn 90% các công bố quốc tế có liên quan đến đào tạo nghiên cứu sinh. Đào tạo nghiên cứu sinh có ý nghĩa quan trọng và sống còn với đại học định hướng nghiên cứu tiên tiến, với các đại học ưu tú như ĐH Quốc gia Hà Nội (ĐHQGHN).
"Đào tạo nghiên cứu sinh bài bản, chỉn chu, nghiêm túc và chất lượng chúng tôi mới có đội ngũ tiến sĩ có chất lượng, và từ đó mới có đội ngũ GS, PGS có chất lượng. Với Quy chế lần này, tôi tin tưởng sẽ là nhân tố quan trọng đột phá, tiếp tục thúc đẩy hoạt động nghiên cứu và đổi mới sáng tạo, hội nhập quốc tế và hình thành nhiều nhóm nghiên cứu mới ở ĐHQGHN. Quy chế mới là đòn bẩy thúc đẩy công bố quốc tế và từ đó tăng cường tiềm lực KHCN và xếp hạng của các ngành/lĩnh vực, cũng như của các đơn vị đào tạo và ĐHQGHN" - GS.TSKH Nguyễn Đình Đức nhấn mạnh.
Chuẩn đầu ra cao hơn với Quy chế hiện hành của Bộ Giáo dục và Đào tạo
GS Nguyễn Đình Đức khẳng định: Quy chế tiến sĩ của ĐH Quốc gia Hà Nội ban hành quy chế mới yêu cầu cao hơn Quy chế hiện hành của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Cụ thể, nghiên cứu sinh trong quá trình đào tạo phải có công bố quốc tế, là tác giả chính của các công bố khoa học có tổng điểm đạt từ 2,0 trở lên tính theo điểm tối đa do Hội đồng Giáo sư nhà nước quy định cho mỗi loại công trình.
Các công bố quốc tế phải được viết bằng tiếng nước ngoài, các bài báo đăng trên các tạp chí khoa học chuyên ngành trong nước phải thuộc danh mục được Hội đồng Giáo sư nhà nước quy định khung điểm đánh giá tối thiểu 0,75 điểm và phải đáp ứng một trong các tiêu chí sau:
Có tối thiểu 01 bài đăng trên tạp chí khoa học thuộc danh mục Web of Science hoặc Scopus (sau đây gọi chung là danh mục WoS/Scopus); có 01 bằng phát minh sáng chế/giải pháp hữu ích đã được cấp và tối thiểu 01 bài báo/báo cáo quốc tế thuộc một trong các ấn phẩm sau: chương sách tham khảo do các nhà xuất bản quốc tế có uy tín phát hành; hoặc sách chuyên khảo do các nhà xuất bản có uy tín quốc tế phát hành, hoặc (báo cáo trong kỷ yếu hội thảo quốc tế có phản biện, có mã số ISBN; hoặc bài báo đăng trên tạp chí khoa học chuyên ngành có uy tín của nước ngoài có phản biện, có mã số ISSN;
Hoặc có tối thiểu 02 bài báo/báo cáo quốc tế thuộc một trong các ấn phẩm sau: chương sách tham khảo do các nhà xuất bản quốc tế có uy tín phát hành, hoặc sách chuyên khảo do các nhà xuất bản có uy tín quốc tế phát hành, hoặc báo cáo trong kỷ yếu hội thảo quốc tế có phản biện, có mã số ISBN, hoặc bài báo đăng trên tạp chí khoa học chuyên ngành có uy tín của nước ngoài có phản biện, có mã số ISSN.
Đào tạo theo hình thức tập trung
Khác với các cơ sở đào tạo khác, GS Nguyễn Đình Đức cho hay, đào tạo trình độ tiến sĩ được tổ chức theo hình thức chính quy, tập trung, NCS phải đăng ký và hoàn thành 30 tín chỉ trong một năm học.
Thời gian đào tạo độ tiến sĩ được tính từ ngày quyết định công nhận nghiên cứu sinh có hiệu lực tới thời điểm luận án được thông qua tại đơn vị chuyên môn.
Đơn vị đào tạo được tổ chức giảng dạy, đánh giá các học phần theo hình thức trực tuyến hoặc kết hợp giữa trực tuyến và trực tiếp nhưng phải bảo đảm chất lượng các lớp học này không thấp hơn chất lượng lớp học trực tiếp.
Thời gian đào tạo chuẩn đối với người có bằng thạc sĩ là 03 năm; đối với người chưa có bằng thạc sĩ là 04 năm. Nghiên cứu sinh được kéo dài thời gian đào tạo khi có lý do chính đáng nhưng tổng thời gian đào tạo không vượt quá 06 năm (72 tháng).
Nghiên cứu sinh có kết quả nghiên cứu xuất sắc có thể được tổ chức bảo vệ luận án sớm hơn so với thời hạn đào tạo chuẩn nhưng không quá 01 năm (12 tháng).
Chỉ có GS, PGS, TKSH mới được hướng dẫn chính nghiên cứu sinh
Về tiêu chuẩn người hướng dẫn nghiên cứu sinh, theo GS Nguyễn Đình Đức, yêu cầu của ĐH Quốc gia Hà Nộicao hơn của Bộ Giáo dục và Đào tạo, chỉ có giáo sư (GS), Phó giáo sư (PGS), tiến sĩ khoa học (TKSH) mới được hướng dẫn chính nghiên cứu sinh.
Người hướng dẫn có học vị tiến sĩ (chưa có chức danh giáo sư hoặc phó giáo sư) để hướng dẫn chính nghiên cứu sinh thì phải có thành tích xuất sắc (liên tục trong 3 năm liên tiếp mỗi năm tác giả chính 1 bài Wos/Scopus) và có tối thiểu 01 năm (12 tháng) làm công tác nghiên cứu khoa học và giảng dạy kể từ khi có quyết định cấp bằng tiến sĩ.
Trong thời gian 05 năm (60 tháng) tính đến thời điểm có quyết định công nhận hướng dẫn nghiên cứu sinh, người hướng dẫn chính, người hướng dẫn độc lập, người đồng hướng dẫn (không phân biệt giữa hướng dẫn chính và hướng dẫn phụ) phải có thêm kết quả nghiên cứu trong lĩnh vực chuyên môn liên quan tới đề tài luận án hướng dẫn như sau:
Là tác giả chính của báo cáo hội nghị khoa học, bài báo khoa học được công bố trong các ấn phẩm thuộc danh mục WoS/Scopus hoặc chương sách tham khảo do các nhà xuất bản quốc tế có uy tín phát hành, hoặc bài báo đăng trên các tạp chí khoa học trong nước được Hội đồng Giáo sư nhà nước quy định khung điểm đánh giá từ 0,75 điểm trở lên, hoặc sách chuyên khảo do các nhà xuất bản có uy tín trong nước và quốc tế phát hành; các công bố phải đạt tổng điểm từ 4,0 điểm trở lên tính theo điểm tối đa do Hội đồng Giáo sư nhà nước quy định cho mỗi loại công trình (không chia điểm khi có đồng tác giả).
Ngoại ngữ tương đương với trình độ bậc 4 trở lên
Về điều kiện tuyển sinh, GS Đức cho biết, thí sinh phải tốt nghiệp thạc sĩ, đại học chính quy hạng Giỏi trở lên hoặc trình độ tương đương bậc 7 ở một số ngành chuyên sâu đặc thù. Ngành/chuyên ngành tốt nghiệp phải là ngành phù hợp. Ngành/chuyên ngành phù hợp có 2 loại là: phù hợp không phải bổ sung kiến thức và phù hợp phải bổ sung kiến thức, do đơn vị đào tạo quy định.Thí sinh thuộc trường hợp phải bổ sung kiến thức thì cần hoàn thành trước khi đăng ký dự tuyển.
Về kinh kinh nghiệm nghiên cứu, thí sinh tốt nghiệp thạc sĩ của chương trình đào tạo định hướng nghiên cứu thì luận văn thạc sĩ được xem như minh chứng cho yêu cầu này nếu đơn vị đào tạo không có quy định thêm.
Thí sinh có bằng thạc sĩ định hướng ứng dụng hoặc có bằng thạc sĩ ngành/chuyên ngành phù hợp nhưng phải học bổ sung kiến thức hoặc thí sinh dự tuyển từ cử nhân thì phải là tác giả hoặc đồng tác giả của tối thiểu 01 công bố khoa học liên quan đến lĩnh vực hoặc đề tài nghiên cứu được hội đồng chức danh giáo sư, phó giáo sư của ngành/liên ngành công nhận.
Đối với ngoại ngữ, như quy định tại khoản 8, Điều 10 của QC 4555, tuy nhiên chấp nhận cả văn bằng do phân hiệu của cơ sở đào tạo nước ngoài ở Việt Nam cấp; NCS không cần phải học toàn phần ở nước ngoài.
Đối với chứng chỉ ngoại ngữ: Các chứng chỉ phải trong thời hạn 2 năm kể từ ngày thi chứng chỉ ngoại ngữ đến ngày đăng ký dự tuyển được cấp bởi các cơ sở được Bộ Giáo dục và Đào tạo và Đại học Quốc gia Hà Nội chấp nhận, bao gồm: chứng chỉ quốc tế và chứng chỉ do các cơ sở của Việt Nam cấp tương đương trình độ bậc 4 trở lên theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam. Không cho phép chậm nộp chứng chỉ ngoại ngữ như quy định trong QC 4555.
Chương trình đào tạo gồm tối thiểu 90 tín chỉ đối với nghiên cứu sinh đã có bằng thạc sĩ và 120 tín chỉ đối với nghiên cứu sinh có bằng đại học. Nghiên cứu sinh chưa có bằng thạc sĩ phải học bổ sung tối thiểu 30 tín chỉ.