Vẽ vòng tròn không khép kín
Cao Ngọc Thắng
Kỷ niệm văn chương là một tuyển tập đậm văn phong Hồ Phi Phục. Từ cách sắp xếp thơ và văn xen kẽ, chứ không phân chia phần thơ tách bạch phần văn, đã cho người đọc một ấn tượng bởi sự liền mạch của một hồn thơ, một suy tưởng thơ nhất quán.

Trước khi quen biết Hồ Phi Phục, tôi đã được đọc những bài thơ ông đăng trên báo Văn Nghệ. Tôi có dịp vào quê ông khi ông đương giữ chức Bí thư Huyện ủy Quỳnh Lưu (Nghệ An) năm 1991, cũng năm ấy ông cho xuất bản tập thơ đầu tay Sóng bãi ngang. Lần đầu gặp mặt, ấn tượng trong tôi ông là người trầm trầm, có phần lặng lẽ, ngay cả nụ cười cũng chỉ phảng phất trên môi. Duy đôi mắt ông luôn ánh mầu ấm áp. Giữa mọi người ông ít nói và nói ít, nói vừa đủ lượng thông tin cần truyền đạt. Tính cách của ông thật trái ngược với nắng rát gió lào, với quần quật liên miên bão lũ, với phong thái hừng hực người xứ Nghệ. Ông rất hiền và nhỏ nhẹ, giống ông giáo hơn là một vị quan đầu huyện. Ông người làng Quỳnh Đôi nổi tiếng với hơn một nghìn người đỗ đại khoa và nhiều danh nhân trong lịch sử nước nhà.
Ngay từ hồi đó, thơ Hồ Phi Phục đã: Một cuộc đời của sóng - tan nhanh / Triệu cuộc đời của sóng - nước xanh biển khơi / Vấp bãi bờ sóng gầm thét / Kiến tạo, trữ tình trong dữ dội, sóng ơi! (Bãi ngang).
Sau này vẫn vậy, vẫn một nhân cách, không hề bị “pha loãng” dù ông giữ chức Trưởng ban Tuyên giáo rồi Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc tỉnh Nghệ An.
Tháng 10.2014 tôi nhận được cuốn sách Kỷ niệm văn chương (NXB Đại học Vinh) ông gửi tặng như những lần trước đó đã gửi tặng các tác phẩm: Sóng bãi ngang, thơ (1991), Kinh tế ngầm, tiểu luận (1994), Chân trời lạ, ngẫu văn (1993), Hoa đại, thơ (1997), Gió mùa, thơ (2007), Tạp văn (2012).
Khác với vẻ bề ngoài trầm tĩnh, ung dung, văn thơ Hồ Phi Phục luôn tiềm ẩn sự bùng nổ đi đôi với sự khái quát có lúc trào ra con chữ, nhưng phần nhiều lặn vào cấu tứ, duy lý đấy mà không mất đi cảm hứng trữ tình: “Rồng đã mơ mây trời vẫy gọi / Cây xanh nền cung điện thuở nào / Khúc trường hận sáu trăm năm cũ / Một thời một kiếp một vì sao” (Thành nhà Hồ). Đấy là thơ. Còn văn: “… Lại một mùa đông ấp ủ. Vẫn chưa bắc xong cây cầu mắc nợ bài thơ. Cái đẹp dễ gì một thuở./ Trầm ngâm hồ sen./ Mãi chờ…” (Nhật ký hồ sen).
Hồ Phi Phục có cách nhìn, cách nói về thời gian không đơn thuần là sự tuần tự, càng không phải là đối tượng vô tri vô giác: “Đã tự bao giờ con người nhìn thấy / Trong sóng và trong mồ hôi / Lưỡi rìu thời gian” (Dấu vết). Là lưỡi rìu, thời gian đã trở thành lực lượng vật chất, vừa có sức đẩy sóng vận động không ngơi nghỉ trong mênh mông biển cả, vừa gieo vào mỗi đời người cái tới hạn khiến lòng trăn trở khó nguôi ngoai, ở mỗi bước dừng lại cảm hoài tiếc nuối. Lưỡi rìu thời gian chạm khắc vô vàn cái vô hình mà có thật, tạo nên những điểm nhấn trên bức tranh tổng thể của một thế giới gồ ghề uốn nhịp đa chiều, nhiều hướng: “Người đi trong mây mù đỉnh núi / Lặn lội trăm năm cho ngàn năm” (Yên Tử), hoặc: “Dòng sông Lầm Lũi ngọt ngào tan vào biển mặn, phôi pha dưới đám mây mầu. / Hãy còn dòng sông vời vợi của tư duy /…/ Bậc thánh nhân nhìn dòng sông trong xanh nên thơ để rồi chất chứa bao câu hỏi dở dang. Biển cả lâu lâu lại phun lên trời những dòng sông đoản mệnh, tức thời, dữ dội. Biển cả còn ôm ấp trong mình những dòng sông quay vòng nóng lạnh /…/ Dòng sông Lầm Lũi mãi mãi chảy về nơi không ngừng hóa kiếp…” (Dòng sông Lầm Lũi).
Trở lại với hình ảnh lưỡi rìu. Lưỡi rìu thời gian có chặn khúc làm người đổ mồ hôi, nhưng cuộc đời còn liền mạch cho chuỗi dài ngẫm ngợi lẽ đúng sai, chữa lầm lỗi: “Chim cứ hót vang / Chuyền cành bắt sâu / Tay súng hơi kia không rón rén nữa / Chợt đứng lặng / Cúi đầu” (Chim chích mùa xuân). Song, chen giữa lòng nhân ái còn không ít dạ sói lang, biến công cụ lao động thành tội đồ chém chịa, tách những cá thể đứt lìa quần thể: “Tiếng rìu đẵn thông xa dần / Tiếng rìu đẵn thông / Xa dần / Tiếng rìu / Xa…/ Tiếng rìu đau cả gió!” (Đà Lạt). Những câu thơ neo vào người đọc vết thương loang khắp cơ thể đại ngàn. Núi rừng không còn sức lực ôm ấp tiếng vọng xa xưa gửi gắm, không còn nơi cho đắm chìm suy tư đổi đời cháu con. Tội lỗi không chỉ dừng nơi hão huyền kẻ trọc phú tham lam. Lỡ lầm còn vương nơi cạn nghĩ bốc đồng, vội vã, khiến “Bốn lũy tre làng / Đi biệt tăm / Mang theo khung cửi và chày giã lụa / Mang theo chữ Nho / Của thầy đồ của ngàn người đỗ đạt” (Tre làng). Nỗi buồn thế sự của Hồ Phi Phục dường như dai dẳng suốt cuộc đời. Ông viết về nhà văn Đặng Thai Mai khi còn thơ ấu: “Hồi đó xa rồi / Nước mắt hươu sao rơi / Mũi mác tha hươu của cậu bé / Đã làm bực bội cả phường săn / Mũi mác khác thường không vô dụng / Nó trở thành ngòi bút nhà văn” (Cậu bé và hươu sao). Ký ức đẹp ấy đã là sợi dây kết nối văn - thơ Hồ Phi Phục với đời thực một cách bền bỉ.
Kỷ niệm văn chương tuyển chọn những tác phẩm của Hồ Phi Phục sáng tác trong vòng hơn ba mươi năm qua. Đọc lại một cách tổng quát thơ văn Hồ Phi Phục, tôi muốn gọi ông là “Người vẽ vòng tròn không khép kín” với lòng trân trọng.
Ngày đã chán ngày rồi
Chiều đổi sắc
…
Con nước níu chân ngày ngập bãi
Ngày ướt đẫm vào đêm
Dẫn mấy câu từ bài “Hoàng hôn” (II) của nhà thơ, tôi mong mỏi hồn thơ của Hồ Phi Phục tiếp tục “đổi sắc” để “dòng nước ngày” tưới “đẫm vào đêm” không chỉ cho riêng ông luôn đi trên vòng tròn không khép kín…