Về bình đẳng giới trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992

Lê Thị Phương Hoa
Phó trưởng ban Pháp chế HĐND tỉnh Vĩnh Phúc
18/06/2013 08:30

So với nội dung quy định về bình đẳng giới tại Điều 63 Hiến pháp năm 1992, quy định trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 còn khá khái quát, chung chung, một số nội dung quan trọng, cần thiết liên quan đến việc bảo đảm, bảo vệ quyền bình đẳng giữa nữ và nam đã không còn được hiến định.

Bình đẳng giới là vấn đề luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm và được ghi nhận trong tất cả các bản Hiến pháp trong lịch sử lập hiến nước ta. Việc hiến định quyền bình đẳng giới trong các bản Hiến pháp đã ghi nhận về mặt pháp lý quyền bình đẳng giữa nam và nữ, góp phần quan trọng vào sự nghiệp giải phóng phụ nữ, từng bước nâng cao và khẳng định vai trò, vị thế người phụ nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 tiếp tục hiến định quyền bình đẳng giới, trong đó đặc biệt nhấn mạnh tại Điều 27 (sửa đổi, bổ sung Điều 63):

“1. Công dân nam, nữ bình đẳng và có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình.

2. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền bình đẳng giữa công dân nữ và nam trên mọi lĩnh vực. Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội.

3. Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử về giới”.

Tuy nhiên, so với nội dung quy định về bình đẳng giới tại Điều 63 Hiến pháp năm 1992, quy định này của Dự thảo còn khá khái quát, chung chung, một số nội dung quan trọng, cần thiết liên quan đến bảo đảm, bảo vệ quyền bình đẳng giữa nữ và nam đã không còn được quy định, như: nghiêm cấm xúc phạm nhân phẩm phụ nữ; lao động nữ và nam làm việc như nhau thì tiền lương ngang nhau; lao động nữ có quyền hưởng chế độ thai sản… Các quyền này không chỉ được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992 mà đã được ghi nhận qua các bản Hiến pháp năm 1959, năm 1980, nghĩa là đã có bề dày lịch sử hơn 40 năm. Song trên thực tế, không ít nội dung liên quan đến quyền bình đẳng nam, nữ vẫn chưa thực sự đi vào cuộc sống.

Trong điều kiện tâm lý, tư tưởng trọng nam, khinh nữ còn hiện hữu khá nặng nề trong xã hội, bình đẳng nam, nữ trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội còn đang là mục tiêu phấn đấu ở nước ta; trong khi cơ chế bảo vệ Hiến pháp còn chưa được thiết kế một cách hiệu quả, nếu chỉ quy định chung chung, mang tính định hướng, khẩu hiệu, thiếu các nguyên tắc cụ thể gắn với đặc thù về giới như trong Dự thảo, quyền bình đẳng nam, nữ sẽ vẫn tiếp tục khó được thực hiện một cách toàn diện, đầy đủ, hiệu quả trên thực tế.

Bên cạnh đó, những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra nhiều chủ trương, biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt trong lĩnh vực chính trị, thông qua việc ấn định tỷ lệ nữ tối thiểu tham gia vào các cơ quan dân cử, tham gia lãnh đạo, quản lý trong bộ máy nhà nước. Song các biện pháp này dường như chưa thực sự hiệu quả. Tỷ lệ nữ tham gia Quốc hội, HĐND các cấp và tham gia lãnh đạo, quản lý ở hầu hết các cấp, các ngành đều chưa đạt mức tối thiểu được ấn định.

Mặt khác, nhìn từ góc độ khoa học cũng như thực tế, khái niệm “giới” hiện nay không chỉ còn bó hẹp là nam và nữ mà còn có các nhóm người đồng tính, song tính, chuyển giới (lỗi do cấu trúc sinh học chứ không phải do họ có lối sống, sinh hoạt lệch lạc như lâu nay chúng ta vẫn quan niệm). Cộng đồng này đang hiện hữu ngày càng rõ nét ở Việt Nam và cần được xem thuộc nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương, do bản thân họ luôn sống trong tâm lý mặc cảm rất lớn, phải chịu sự kỳ thị do thiếu sự hiểu biết, cảm thông, chia sẻ của gia đình, cộng đồng, xã hội. Vì vậy, quyền bình đẳng của nhóm người này cần được ghi nhận lồng ghép với quyền bình đẳng giới trong Hiến pháp, từng bước tạo sự bình đẳng trên thực tế, tránh đẩy họ vào sự bế tắc, tiêu cực, gây những hậu quả không tốt cho xã hội.

Xuất phát từ thực trạng nêu trên, để bảo đảm phù hợp với Công ước CEDAW về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ mà Việt Nam là một trong các quốc gia đầu tiên tham gia; đồng thời phù hợp với thực tiễn hiện nay ở Việt Nam và xu hướng chung của các quốc gia trên thế giới, đề nghị sửa nội dung Điều 27 của Dự thảo theo hướng:

Tại Khoản 1, sửa từ: “Công dân nam, nữ bình đẳng và có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình” thành “Công dân nam, nữ không phân biệt thiên hướng tính dục bình đẳng, có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình”.

Khoản 2, đồng thời với việc quy định “Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền bình đẳng giữa công dân nữ và nam trên mọi lĩnh vực” như trong Dự thảo, đề nghị sửa lại đoạn tiếp theo như sau: “Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo đảm và tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội và gia đình” để xác định rõ việc bảo đảm và tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội và gia đình là trách nhiệm pháp lý của Nhà nước, xã hội và gia đình. Nếu ghi như Dự thảo: “Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội” thì có thể hiểu đây không phải là trách nhiệm pháp lý mà giống như một sự ban ơn đối với phụ nữ.

Đề nghị bổ sung quy định: “Lao động nữ và nam bình đẳng trong việc hưởng các cơ hội việc làm và các phúc lợi xã hội. Lao động nữ được trả tiền công, tiền lương như lao động nam đối với những công việc có tính chất, giá trị ngang nhau. Lao động nữ có quyền hưởng chế độ thai sản”. Đây sẽ là cơ sở hiến định để nữ giới và nam giới có các cơ hội có việc làm như nhau, bao gồm cả việc áp dụng những tiêu chuẩn như nhau khi tuyển dụng lao động; quyền được hưởng thù lao như nhau, gồm cả phúc lợi, được đối xử như nhau khi làm những việc có giá trị ngang nhau cũng như được đối xử như nhau trong việc đánh giá chất lượng công việc.

Đề nghị bổ sung vào trước Khoản 3 hai nội dung mới gồm: “Nhà nước và xã hội có trách nhiệm bảo vệ quyền của phụ nữ thuộc các dân tộc thiểu số, phụ nữ thuộc nhóm người già cả, cô đơn, khuyết tật và trẻ em gái”. Vì trên thực tế, đây là nhóm yếu thế, dễ vi phạm quyền, bị phân biệt đối xử và khó có thể tự bảo vệ được mình khỏi sự vi phạm, sự phân biệt đối xử. Và “Chính phủ có trách nhiệm thực hiện các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới với các điều kiện và cơ chế phù hợp nhằm thúc đẩy việc thực thi quyền bình đẳng giới”. Quy định này nhằm loại bỏ các rào cản và thúc đẩy sự tham gia của phụ nữ vào mọi lĩnh vực đời sống xã hội.

Tại Khoản 3, thay vì quy định “Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử về giới”, đề nghị bổ sung như sau: “Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử về giới, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ và mọi hình thức bạo lực về thể chất, tinh thần, tình dục, cảm xúc, kinh tế đối với phụ nữ, vì trên thực tế, đa số nạn nhân của các hành vi bạo lực nêu trên là phụ nữ.

    Nổi bật
        Mới nhất
        Về bình đẳng giới trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO