Văn minh súng đạn
Trong suốt quá trình xây dựng đất nước non trẻ từ một thuộc địa của thực dân châu Âu trở thành siêu cường số một hành tinh, người dân Mỹ còn tạo ra một “đặc sản văn hóa” có một không hai: văn hóa súng đạn, trong đó quyền sở hữu và sử dụng súng của mỗi công dân được ghi rõ và bảo vệ ngay trong hiến pháp, thậm chí chỉ sau quyền tự do ngôn luận.
Một vấn đề lịch sử
Không phải ngẫu nhiên mà trong thời nội chiến giữa hai miền Nam Bắc nước Mỹ (1861 - 1865) đã xuất hiện câu nói nổi tiếng: “Abraham Lincoln giải phóng con người, nhưng Samuel Colt mới đem lại bình đẳng”. Samuel Colt là người phát minh ra súng lục ổ quay nổi tiếng (súng Colt) mà hầu hết chúng ta đã nhìn thấy bên hông chàng cao bồi Lucky Luke, hay trên bất cứ bộ phim về miền tây hoang dã nào của chàng tài tử Clint Eastwood. Đây cũng là thời mà những chàng cao bồi mang súng với vẻ mặt tự hào như thể hiệp sĩ quý tộc châu Âu đeo kiếm, với những cuộc đấu súng ngoạn mục trở thành nguồn ý tưởng không bao giờ cạn cho các nhà văn ba xu sau này.
Hầu như mọi giai đoạn lịch sử của nước Mỹ đều gắn liền với súng. Vào thời Thế chiến thứ Hai là những khẩu Luger, sau đó loại súng tiểu liên Thompson nhanh chóng được các băng nhóm mafia nấu rượu lậu dùng để trừ khử nhau, rồi gần đây là súng AK-47, sản phẩm của Liên bang Xô Viết cũ dùng để giáng đòn mạnh vào bè lũ đế quốc tư bản.
Thật vậy, cái sự mê súng của người Mỹ đã có trước đó rất lâu, ngay từ thời lập quốc.
Vấn đề sở hữu súng đã gắn liền với lịch sử hình thành của nước Mỹ. Khẩu súng cá nhân đã giúp những người di cư gốc châu Âu đầu tiên khai khẩn đất hoang, chiến đấu chống lại thú dữ và các bộ lạc thổ dân bản địa dữ tợn, giúp các ông bố bảo vệ vợ con trước nạn cướp cạn hoành hành khắp miền tây hoang dã, và cuối cùng là giúp chính con dân thuộc địa nổi dậy chống lại ách thống trị của thực dân đế quốc Anh. Tuy nhiên, sau khi nước Mỹ giành được độc lập và xây dựng được một lực lượng quân đội chính quy và tinh nhuệ, mối liên hệ giữa dân và quân bắt đầu phai nhạt dần.
Có thể một lực lượng dân quân hay một tập hợp nhân dân có vũ trang không còn phù hợp cho xã hội hiện đại. Nhưng rõ ràng, những bậc tiền nhân của nước Mỹ đã thêm ý tưởng này vào trong bản hiến pháp vì muốn chúng được xem xét một cách nghiêm túc.
Khi những nhà lập quốc của nước Mỹ bổ sung Tuyên ngôn Nhân quyền (gồm 10 tu chính án đầu tiên của Hiến pháp) vào năm 1791, họ muốn bảo vệ từng người dân khỏi sự đe dọa tiềm năng của các chính quyền cấp trung ương lẫn cấp bang. Hầu hết học giả đều nhận xét, hiến pháp Mỹ đã không thể được thông qua, nếu khi đó người Mỹ không được 10 tu chính án nói trên trấn an nhằm kiểm tra quyền lực của chính quyền, cũng như bảo đảm quyền tự do công dân.
Hẳn trong những ngày đầu tiên dựng nước, nỗi lo sợ về một chính quyền độc tài đã khiến các nhà lập pháp Hoa Kỳ cho phép mỗi công dân được mang súng, như một biện pháp đối trọng với lực lượng quân đội chính quy nhằm gìn giữ nền dân chủ. Nói một cách đơn giản, không nhà cầm quyền nào, dù bạo ngược hay chuyên chế đến đâu, lại muốn đối đầu với một đạo quân gồm… 300 triệu tay súng.
Dù đây là điều gây tranh cãi không dứt trong suốt hơn 200 năm qua, với những lập luận chặt chẽ của cả hai phe ủng hộ lẫn chống đối, người ta không thể phủ nhận việc tự do súng ống ở Mỹ (tùy theo từng bang) ít nhất đã đóng vai trò là nguồn cảm hứng lớn cho nền văn hóa Mỹ, đặc biệt là ở địa hạt văn học và điện ảnh. Nhưng không đồng xu nào không có hai mặt. Vấn đề sở hữu súng của người Mỹ cũng không phải ngoại lệ.
Nhìn ra bên ngoài, cách thế giới tiếp nhận và xử lý tin tức về các thảm họa liên quan đến súng đạn xảy ra tại Hoa Kỳ cũng không kém phần quan trọng. Liệu công cụ (súng) hay người sử dụng công cụ mới thật sự là “kẻ ác”?
Quyền mang súng, diễn giải sao cho đúng?
Một phần rất quan trọng trong hiến pháp là 10 bản tu chính án đầu tiên còn có tên gọi Tuyên ngôn Nhân quyền. Nếu tu chính án số 1 bảo đảm quyền tự do ngôn luận và tự do tín ngưỡng, thì tu chính án số 2 phản ánh rõ tầm quan trọng của vũ khí và quyền sở hữu vũ khí trong lịch sử lập quốc của nước Mỹ.
Năm 1791, Mỹ thông qua tu chính án 2, với nội dung nguyên văn: “Một lực lượng dân quân quy củ là cần thiết cho một quốc gia tự do. Quyền được giữ và mang vũ khí của nhân dân sẽ không bị xâm phạm”. Kể từ đó, những cuộc tranh luận bất tận trong giới học giả và lập pháp chủ yếu xoay quanh cách diễn giải mấy chữ này sao cho đúng.
Để viết nên hiến pháp, các nhà sáng lập Hoa Kỳ đã rút tỉa kinh nghiệm từ nhiều nguồn khác nhau, chủ yếu từ mô hình Hy Lạp - La Mã cổ đại, thời Phục hưng Ý và các triết gia Anh cận đại. Theo ý kiến của Stephen Halbrook, một luật sư kiêm học giả Mỹ am hiểu về tu chính án 2, câu hỏi thật sự cho mọi cuộc tranh luận xoay quanh vấn đề này không phải là “Liệu có nên trang bị vũ khí cho một số người?” mà là “ai nên được trang bị vũ khí?” Theo ông, nguyên tắc căn bản này thật ra đã được hai triết gia Hy Lạp cổ đại là Aristotle và Plato bàn luận từ lâu.
Plato muốn một nhà nước lý tưởng dưới sự cai trị của một nhà vua cũng là một triết gia. Dưới quyền vua là lực lượng hỗ trợ, hoặc lực lượng quân sự thi hành ý chí của ngài. Kế đến là tầng lớp thường dân mà Plato cho là không mấy thông minh so với mô hình được Aristotle đề xướng: một tập thể công dân gồm mọi thành phần tham gia vào cơ chế chính trị và lực lượng công dân, và đều được trang bị vũ khí.
Halbrook giải thích những nhà soạn thảo hiến pháp Mỹ muốn bảo vệ đa số quyền lợi mà chính họ được hưởng trước đó với tư cách công dân Anh quốc. Trong những tháng dẫn đến cuộc cách mạng Mỹ, nhiều người dân thuộc địa đã bị tước đạt tự do, bao gồm quyền sở hữu vũ khí, để thực dân Anh có thể thi hành những đạo luật mà nhiều người Mỹ cho là bất công.
Thế nào là đạo quân “quy củ”?
Theo sử gia Saul Corner của Đại học Fordham, bản tu chính án 2 là một “gánh nặng” trên vai người dân Mỹ, khi nó tập trung vào nghĩa vụ bảo vệ đất nước của lực lượng dân quân được đề cập hơn là bảo vệ quyền sở hữu súng của mỗi cá nhân.
“Tôi không nghĩ sẽ có nhiều người, thuộc cả phe đòi kiểm soát súng lẫn muốn sở hữu súng, sẽ vui vẻ nếu chúng ta quay trở về ý nghĩa nguyên thủy của tu chính án 2, bởi vì với những ai muốn kiểm soát súng, điều này liên quan đến quân sự hóa xã hội, vì chúng ta sẽ sống trong một quốc gia giống như Thụy Sỹ và Israel. Còn với những ai đòi quyền sở hữu súng, bản tu chính án 2 sẽ đòi hỏi những quy định ngặt nghèo hơn, vì không thể tập hợp một lực lượng dân quân mà không kiểm tra vũ khí và huấn luyện thường xuyên hơn”, Saul Corner nhận xét.
Có thể thấy, trong khi phe ủng hộ quyền sở hữu súng thường nhấn mạnh vào yếu tố “quyền được giữ và mang vũ khí” của tu chính án 2, thì những người phản đối lại vịn vào chi tiết “lực lượng dân quân”.
Cùng một mệnh đề, song bản tu chính án 2 lại có thể được diễn giải theo hai cách. Đọc đến đây, ai thờ ơ nhất cũng phải đặt ra câu hỏi: “Những cuộc tranh luận này giờ đã đi đến đâu?” và “Tại sao đến giờ Mỹ vẫn chưa cấm súng thành công? Và tại sao?”.
Muốn cấm cũng không được
Hơn hai thế kỷ đã trôi qua kể từ khi nước Mỹ cho phép người dân được sở hữu súng, phe ủng hộ tu chính án 2 đến giờ vẫn tỏ ra nổi trội hơn cả, khi đã có đến tám đời tổng thống Mỹ là thành viên của Hiệp hội súng quốc gia (National Rifle Association of America NRA), gồm Ulysses Grant, Theodore Roosevelt, Eisenhower, Kennedy, Nixon, Reagan, George H. W. Bush và George W. Bush (Bush “con”), bất chấp nước Mỹ từng có đến… bốn vị tổng thống bị chết vì bị ám sát bằng súng là Abraham Lincoln, James A. Garfield, William McKinley và John F. Kennedy.
Có đường lối và chủ trương hoạt động đúng như tên gọi, NRA là một tổ chức dành cho những người đam mê văn hóa súng ống và cổ súy cho luật sở hữu vũ khí. Các hoạt động chính của NRA bao gồm cung cấp những khóa huấn luyện kỹ năng và nghiệp vụ dùng súng, huấn luyện cảnh sát, săn bắn và các khóa dạy trẻ em về an toàn vũ khí. Nhưng nếu tất cả chỉ có thế, thì NRA đã không trở thành một con ngáo ộp đầy quyền lực ở thủ đô Washington như hiện tại.
Thành lập từ năm 1871, NRA hiện có hơn năm triệu hội viên và là một trong những đoàn thể có thế lực nhất nước Mỹ. Tuy mang tiếng là tổ chức phi lợi nhuận dành cho những hội viên chia sẻ niềm đam mê súng với nhau, song NRA lại chủ yếu được biết đến với quyền lực vận động hàng lang (lobby) chính trị mạnh mẽ, chi phối rất lớn đến khả năng trúng cử của mọi ứng viên vào lưỡng viện và ghế tổng thống trong mỗi kỳ bầu cử.
Khác với hầu hết các tổ chức phi lợi nhuận, NRA có nguồn lực tài chính dồi dào nhờ khoản đóng góp của hội viên, đặc biệt là những tập đoàn và nhà tài phiệt trong lĩnh vực kinh doanh vũ khí. Tờ Business Insider tiết lộ vào năm 2010, NRA đã chi nhiều hơn 240 triệu đô la Mỹ so với Brady Center to Prevent Gun Violence, tổ chức hùng mạnh nhất phe chống sở hữu súng.
Trong một bài viết đăng trên tờ Thời báo New York vào cuối năm 2012, cây bút Paul Waldman đã nhận xét sau những thất bại vào năm 1994 và 2000, đảng Dân Chủ đã “biết sợ” quyền lực của NRA để từ đó về sau không một thành viên nào của đảng này dám “mạnh miệng” lên tiếng về vấn đề chống sở hữu súng, nếu không muốn chuốc lấy thất bại như Bill Clinton (1994) và Al Gore (2000).
Năm 2000, phó tổng thống Mỹ lúc đó là Al Gore lên tiếng đòi thắt chặt hơn các quy định dành cho người mua súng, và NRA đã chi đến 20 triệu USD cho chiến dịch chống lại ông. Kết quả: Al Gore thậm chí còn mất phiếu ngay tại bang nhà Tennessee. Brian Anse Patrick, giảng viên Đại học Toledo, bang Ohio, Mỹ, nói: “NRA không bầu được ai vào Nhà Trắng, song họ có thể làm lệch cán cân bầu cử”.
Và đây là bài học mà mọi đảng viên đảng Dân Chủ đều hiểu rõ, trong đó bao gồm cả đương kim tổng thống Barack Obama. Nỗ lực kiểm soát súng gần đây nhất của nội các ông Obama đã thất bại nặng nề, sau khi thượng viện Mỹ bác bỏ đề xuất yêu cầu kiểm tra lý lịch của những người mua vũ khí, chỉ bốn tháng sau khi xảy ra vụ thảm sát bằng súng ở một trường tiểu học thuộc bang Connecticut. Khi đó, thượng nghị sĩ đảng Dân Chủ Chris Murphy đã nhận xét: “Nước Mỹ đang dần quay trở lại thời kỳ miền tây hoang dã, trong đó kẻ xấu và người tốt đều có súng, và chúng ta chỉ trông mong người tốt bắn hạ được kẻ xấu”. Về phần mình, ông Obama gọi quyết định của thượng viện là “đáng hổ thẹn”.
Nhìn nhận một cách khách quan và công bằng hơn, không phải lúc nào lý lẽ của phe ủng hộ sở hữu súng cũng đều phi lý. Đến thời điểm hiện tại, số lượng vũ khí người Mỹ đang sở hữu dao động từ 270 đến 310 triệu khẩu súng, và dân số quốc gia này đang vào khoảng 313 triệu người. Giả sử luật cấm súng được thông qua, và không bán thêm khẩu súng nào, khi ấy chính phủ Mỹ sẽ làm thế nào để giải quyết toàn bộ số lượng súng xấp xỉ dân số đang trôi nổi khắp đất nước? Và liệu người dân sẽ trực tiếp nộp súng cho cơ quan chức năng? Vì sẽ là rất bất công, nếu trong cùng một cộng đồng, người thì có súng, người lại… không.
Giữa hai giải pháp dở như nhau, người ta phải chọn giải pháp ít… tệ hơn, tức tiếp tục nền văn hóa súng đạn có một không hai của Hoa Kỳ. “Cách duy nhất để ngăn một kẻ xấu có súng, là người tốt cũng được trang bị súng”, câu nói của phó giám đốc NRA, Wayne LaPierre có lẽ là lời tóm gọn không thể súc tích hơn cho vòng lặp luẩn quẩn bế tắc mà giới lập pháp Mỹ đang gặp phải quanh những khẩu súng.