Nhà hùng biện lãng mạn, đầy chất thơ
Cụ Vũ Đình Hòe (1912 - 2011), Bộ trưởng Bộ Giáo dục đầu tiên, cũng là ĐBQH Khóa I, từng viết: Đỗ Đức Dục quan niệm đã làm chính trị phải có chính kiến của mình.
Chính kiến của Đỗ Đức Dục những năm đầu cách mạng là chủ nghĩa “dân chủ mới”, “dân chủ nhân dân”, mọi quyền lực tập trung ở một Quốc hội đại diện mọi tầng lớp nhân dân không phân biệt giai cấp, tôn giáo, chính kiến, miễn là yêu nước, tha thiết với nền độc lập và chế độ dân chủ mới, kiên quyết bảo vệ nguyên lý tập quyền, chống lại phân quyền. Phải xây dựng trên nguyên lý đó Quốc hội một viện mạnh. Chỉ có vậy mới giữ được Độc lập, mới chống được giặc ngoại xâm đang lăm le trở lại! Vì thế, bản Dự thảo Hiến pháp 1946 do Đỗ Đức Dục thuyết trình đã thuyết phục được Quốc hội Khóa I, kể cả hầu hết đại biểu Việt Quốc - Việt Cách, thông qua tại Kỳ họp thứ 2.
Trong hồi ký của mình, Đỗ Đức Dục nhớ lại: Vấn đề cơ bản đặt ra trước mắt những người làm Hiến pháp năm 1946 là sự lựa chọn giữa hai phương hướng: dân chủ tư sản và dân chủ nhân dân. Sự thật rõ ràng là hầu hết những người trí thức Việt Nam thời bấy giờ đều theo học nhà trường Pháp và mang nặng xu hướng dân chủ tư sản mà nền Cộng hòa đại nghị Pháp là một mô hình tiêu biểu bày ra trước mắt họ. Cũng có một số ít người khác nhìn rõ nhược điểm của nền cộng hòa đại nghị thì lại bị thu hút bởi cái mô hình dân chủ tư sản kiểu Hoa Kỳ là cộng hòa tổng thống. Nói chung, những người có kiến thức pháp lý thời đó đều thấm nhuần học thuyết phân quyền hay tam quyền phân lập của Montesquieu xuất hiện từ thời Cách mạng tư sản Pháp 1789. Cho nên chế độ dân chủ nhân dân, lúc đó thường gọi là “dân chủ mới” với nguyên lý tập quyền hay tập trung dân chủ, còn là cái gì rất mới, họ không khỏi bỡ ngỡ, vì trong thực tế, nền dân chủ nhân dân cũng chưa được thể hiện ở một Nhà nước cụ thể nào trên thế giới lúc bấy giờ.
Đỗ Đức Dục đã đi dự Quốc dân đại hội Tân Trào (1945); trúng cử đại biểu Quốc hội Khóa I (tỉnh Hà Đông, nay là Hà Nội), Ủy viên Tiểu ban Dự thảo Hiến pháp 1946, Phó tổng thư ký đảng Dân chủ, Phó bí thư Tổng bộ Việt Minh (1947 - 1950), Chủ nhiệm báo Độc Lập; Thứ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục (1946), Thứ trưởng Bộ Văn hóa (1955 - 1960), Phó chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam (1945 - 1960). Từ 1960, ông làm chuyên viên nghiên cứu văn học tại Viện Văn học Việt Nam cho đến khi nghỉ hưu năm 1975. Đỗ Đức Dục được truy tặng Huân chương Độc lập hạng Nhất (2001). Hà Nội đã đặt tên phố Đỗ Đức Dục ở quận Nam Từ Liêm (2008). |
Từ đó, nảy sinh đấu tranh tư tưởng giữa các đại biểu trong Quốc hội. Cuộc đấu tranh tư tưởng trở nên gay gắt giữa xu hướng dân chủ đại nghị với chế độ hai viện và xu hướng dân chủ tập trung với chế độ một viện. Cuối cùng xu hướng thứ hai đã thắng và được ghi cụ thể trong Hiến pháp: Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân (Điều thứ nhất).
Năm 1986, nhìn lại 40 năm bản Hiến pháp đầu tiên, Đỗ Đức Dục đã so sánh: “Nếu so với những Hiến pháp về sau như Hiến pháp 1959 hay Hiến pháp 1980 thì văn bản Hiến pháp 1946 thật là ngắn gọn, dường như chỉ là một bản “sơ thảo”. Song, chính cái tính ngắn gọn “sơ thảo” ấy lại nói lên tình thế cuộc đấu tranh của nhân dân ta lúc đó, cụ thể là từ tháng Tám 1945 đến tháng Mười hai 1946”.
Vì vậy, với tư cách người thuyết trình Hiến pháp 1946, Đỗ Đức Dục đã cố gắng thể hiện trong bản báo cáo đọc trước Quốc hội ngày 8.11.1946, “tinh thần lãng mạn cách mạng”. Kết thúc bài phát biểu, Đặng Thai Mai đã chạy đến bắt tay Đỗ Đức Dục và thốt lên bằng tiếng Pháp ở hành lang Quốc hội khen ngợi một nhà hùng biện lãng mạn, đầy chất thơ (nguyên văn tiếng Pháp được cụ Vũ Đình Hòe nhắc lại: C’est un chef d’oeuvre d’éloquence et de poésie).
Làm chính trị thực sự và hăng say
Đỗ Đức Dục (1915 - 1993), nguyên quán làng Xuân Tảo (tục gọi là Cáo Đỉnh), nay là phường Xuân Đỉnh, Bắc Từ Liêm, Hà Nội. Đỗ cử nhân loại ưu khoa Luật Trường Đại học Đông Dương nhưng không ra làm quan. Đỗ Đức Dục dạy học tư tại Hà Nội, vào Huế, ra Vinh một thời gian trở lại Hà Nội dạy ở tư thục Gia Long, biên tập viên, rồi từ năm 1942 làm Thư ký tòa soạn báo Thanh Nghị, chuyên viết về thời sự quốc tế, kinh tế và văn hóa Đông Dương.
![]() Đỗ Đức Dục thuyết trình Dự thảo Hiến pháp 1946 |
Con đường đến với chính trị của ông gắn với tên tuổi Dương Đức Hiền. Đỗ Đức Dục nhớ lại trong hồi ký: “Nếu cần phải nói thì đáng kể cuộc gặp gỡ giữa anh Dương Đức Hiền và ba người trong nhóm Thanh Nghị là Vũ Đình Hòe, Đỗ Đức Dục và Nghiêm Xuân Yêm khoảng đầu năm 1945 tại ấp Sơn Cẩm cách thị xã Thái Nguyên 6 cây số trên đường đi Bắc Kạn. Thật ra trước đó trên báo Thanh Nghị cũng đã từng có những bài cổ vũ cho phong trào thanh niên sinh viên của Dương Đức Hiền. Song tiếp xúc với Dương Đức Hiền trên địa hạt chính trị thì lần họp ở Sơn Cẩm là lần đầu tiên vì lúc này Dương Đức Hiền đã được Đảng Cộng sản Đông Dương giúp cho thành lập Việt Nam Dân chủ Đảng (sau này đổi là đảng Dân chủ Việt Nam) đứng trong hàng ngũ Mặt trận Việt Minh. Trong cuộc gặp gỡ ở Sơn Cẩm, anh Dương Đức Hiền đã trình bày Chủ nghĩa Tân dân chủ (sau này gọi là Chủ nghĩa Dân chủ mới). Điều đáng tiếc là lần đó, lần đầu tiên nghe nói đến Tân dân chủ, bản thân tôi chưa được thuyết phục bao nhiêu (dường như các anh Hòe và Yêm cũng thế). Cho nên sau đó, giữa chúng tôi và Dương Đức Hiền cũng ít gặp gỡ”.
Sau đó, khoảng cuối tháng 6 - đầu tháng 7.1945, Dương Đức Hiền đã thay mặt Tổng bộ Việt Minh tuyên bố kết nạp Vũ Đình Hòe, Đỗ Đức Dục và Nghiêm Xuân Yêm vào đảng Dân chủ. Hơn một tháng sau, Đỗ Đức Dục lại được đoàn thể cử “lên chiến khu công tác”, sau mới biết là đi dự Quốc dân Đại hội Tân Trào chuẩn bị Tổng khởi nghĩa. Vũ Đình Hòe đã bình luận sự kiện này như sau: “Thế là Dục đạt sở nguyện - “làm chính trị”. Anh làm thực sự, hăng say”.