
“Sau những ngày tháng băng đồng, qua lộ, chịu bom pháo, Hoàng Việt đã đặt chân về đến quê mẹ Tiền Giang, đã đến rất gần với sóng nước Cửu Long. Nhưng ngay trên bờ kênh Ả Rặt, làng Mỹ Thiện, huyện Cái Bè, Tiền Giang, con kênh nhỏ chảy ra Cửu Long, trong buổi sáng cuối cùng năm 1967, sáng 31.12, Hoàng Việt và những người cùng đi bất ngờ bị máy bay Mỹ tập kích...” |
Hoàng Việt tên thật là Lê Chí Trực, sinh ngày 29.10.1928 tại Chợ Lớn. Từ những năm học trung học ở Sài Gòn, lúc mới 16 - 17 tuổi, Lê Chí Trực với bút danh Lê Trực đã viết những ca khúc như “Chị Cả”, “Biệt đô thành” và “Tiếng còi trong sương đêm”, trong đó ca khúc theo điệu tango “Tiếng còi trong sương đêm” qua tiếng hát của ca sĩ Khánh Vân những năm 1944 - 1945 được người dân Sài Gòn và Nam Bộ rất yêu thích:
Trong giai đoạn tiền khởi nghĩa ở Nam Bộ, nếu các hành khúc của Lưu Hữu Phước như “Lên đàng”, “Tiếng gọi thanh niên” là lời kêu gọi, tiếng kèn thúc giục thanh niên đứng dậy cứu nước, thì “Tiếng còi trong sương đêm” là lời tâm sự và quyết tâm ra đi của một lớp thanh niên đô thành được thức tỉnh bởi lời kêu gọi và tiếng kèn thúc giục ấy. Cho đến nay, sau hơn 65 năm ra đời, ca khúc trữ tình thắm sâu tinh thần yêu nước này là một trong những ca khúc tiền chiến vẫn còn được hát nhiều nhất cả trong nước lẫn hải ngoại qua tiếng hát của các ca sĩ nhiều thế hệ.
Cùng với “Làng tôi”, “Tiến về Hà Nội”, “Trường ca sông Lô” của Văn Cao, “Hành quân xa”, “Du kích sông Thao”, “Giải phòng Điện Biên” của Đỗ Nhuận, “Người Hà Nội” của Nguyễn Đình Thi, “Tiếng chuông nhà thờ” của Nguyễn Xuân Khoát, “Lỳ và Sáo”, “Quê tôi giải phóng” của Văn Chung… ba ca khúc đậm chất lãng mạn cách mạng trên của Hoàng Việt nằm trong số những ca khúc hay nhất của âm nhạc cách mạng Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp và mãi đi cùng năm tháng.
Cùng với “Bài ca hy vọng” của Văn Ký, “Tình trong lá thiếp” của Phan Huỳnh Điểu, “Trăng sáng đôi miền” của An Chung, “Câu hò bên bờ Hiền Lương” của Hoàng Hiệp, “Giữ trọn tình quê” của Văn Cận… “Tình ca” của Hoàng Việt ra đời trong những năm đầu đất nước bị chia cắt, là các ca khúc mở ra dòng ca khúc đấu tranh thống nhất đất nước rất đặc biệt trong lịch sử âm nhạc Việt Nam.
Năm 1957, sau hơn hai năm trời bặt vô âm tín, Hoàng Việt bất ngờ nhận được thư vợ từ miền Nam gửi ra, lá thư đã phải đi vòng vèo vạn dặm qua tận nước Pháp xa xôi rồi mới về được Hà Nội để đến tay ông. Những xung động mãnh liệt, trào dâng từ những nhớ thương, tin tưởng, tự hào với người vợ hiền đảm, từ nỗi đau đất nước chia cắt và gia đình ly tán, Hoàng Việt chợt cảm nhận rõ ràng hơn bao giờ hết sức mạnh kỳ diệu của tình yêu đôi lứa trong sự gắn bó thiêng liêng với tình yêu quê hương đất nước. Và bản “Tình ca” đã ra đời như tiếng lòng của Hoàng Việt gửi về người vợ phương xa với những nhắn nhủ thủy chung son sắt:
Ngay sau khi ra đời, “Tình ca” đã được ca sĩ Quốc Hương, người bạn thân từ chiến trường Nam Bộ của Hoàng Việt, thu thanh, phát trên sóng Đài Tiếng nói Việt Nam, làm ngây ngất thính giả trong và ngoài nước. Tuy vậy, thật khó tin, khi bản tình ca tha thiết, mạnh mẽ nhường ấy lại bị một số quan chức văn hóa và cả một số văn nghệ sĩ phê phán là bi lụy, yếu đuối và lập tức bị lưu kho. Mãi đến hơn 10 năm sau, sau khi Hoàng Việt trở về miền Nam chiến đấu, sáng tác và hy sinh, “Tình ca” mới được phổ biến trở lại. Từ đấy, “bài tình ca của đôi lứa ta dâng cả bao người” của Hoàng Việt đã cất cánh bay đến với các thế hệ người Việt ở mọi phương trời, xứng đáng được coi là bài tình ca hay nhất của âm nhạc Việt Nam trong thế kỷ XX.
Năm 1958, Hoàng Việt được cử sang học tập tại Nhạc viện Sofia, Bulgaria. Đến cuối năm 1964, ông tốt nghiệp hạng ưu tú tại đây với bản giao hưởng số 1 của ông, cũng là bản giao hưởng đầu tiên của âm nhạc Việt Nam mang tên “Quê hương” - bản giao hưởng sử thi đồ sộ gồm 4 chương, với những hình tượng âm nhạc phong phú, khắc họa cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của nhân dân Việt Nam nói chung và Nam Bộ nói riêng.
Theo Hoàng Việt, “những ký ức quê hương” và “trách nhiệm của một công dân” đã giúp ông viết nên bản giao hưởng với lời đề tặng “Kính dâng Nam Bộ trong cuộc chiến đấu anh dũng chống ngoại xâm”…
Khi Hoàng Việt trở về Hà Nội, bản giao hưởng cũng đã được Nhà hát giao hưởng hợp xướng nhạc vũ kịch Việt Nam và hai danh ca Quốc Hương, Vũ Dậu dàn dựng, công diễn cùng Bản giao hưởng số 5 của nhạc sĩ vĩ đại người Nga P.I.Tchaikovsky vào ba đêm 26, 27, 28.3.1965 tại Nhà hát Lớn Hà Nội. Đó là ba đêm nghệ thuật không thể nào quên không chỉ với Hoàng Việt mà cả với người hâm mộ và giới âm nhạc hàn lâm Việt Nam…
Tôi nhớ mãi ấn tượng về Hoàng Việt khi ông đến sống tại khu nhà 87B Lý Thường Kiệt, Hà Nội. Đây là khu nhà dành cho các văn nghệ sĩ miền Nam tập kết gồm nhà thơ Bảo Định Giang, các nhà văn Khương Minh Ngọc, Nguyễn Quang Sáng, Xuân Vũ, họa sĩ Nguyễn Tấn Hưng, nghệ sĩ điện ảnh Nhị Hà và ba tôi, nhà nghiên cứu Mịch Quang.
Tôi không hề biết ông tiên tóc bạc trắng này chỉ mới 37 tuổi. Ít lâu sau, nhạc sĩ Văn Cận sau khi tu nghiệp ở Trung Quốc về, đến ở với ba con tôi và tôi đã đôi lần theo nhạc sĩ Văn Cận vào chơi với nhạc sĩ Hoàng Việt trong căn phòng của ông. Được đối diện thật gần với Hoàng Việt, tôi thấy ông không già như tôi tưởng, ông có đôi mắt thật sáng và nụ cười thật hiền từ. Nghe Hoàng Việt và Văn Cận trò chuyện, tôi biết hai nhạc sĩ của “Tình ca” và “Giữ trọn tình quê” khi tập kết đều để lại vợ con ở miền Nam, nay đều có nguyện vọng trở về Nam chiến đấu, sáng tác, mong có cơ hội sum họp gia đình và nguyện vọng đó đã được cấp trên chấp thuận.
Nhà văn Nguyễn Quang Sáng, trưởng đoàn văn nghệ sĩ đi chiến trường Nam Bộ đầu năm 1966 kể rằng, ông và các văn nghệ sĩ trong đoàn không ai nghĩ rằng Hoàng Việt có khả năng vượt nổi Trường Sơn bởi thấy ông quá ốm yếu. Trên đường Trường Sơn, Nguyễn Quang Sáng luôn bố trí Hoàng Việt đi đầu khi hành quân nhưng bao giờ ông cũng là người cuối cùng đến trạm, rất lâu sau khi mọi người đã đến đã nấu cơm và ăn cơm xong.
Toại nguyện về với quê hương, bất chấp đói khổ, ác liệt, ngay trên chiến khu, song song với việc đào hầm, cất nhà, tải gạo, với bút danh mới Lê Quỳnh, Hoàng Việt say sưa sáng tác với năng suất chưa từng có. Từ cuối năm 1966 đến giữa năm 1967, ông đã hoàn thành 12 ca khúc và vở nhạc kịch “Bông sen” kể chuyện anh hùng liệt sĩ Nguyễn Văn Lịch với 102 trang phần đệm piano để gửi ra miền Bắc. Ông còn viết nhạc cho hai điệu múa của Văn công R, rồi chuyển “Bông sen” từ thể loại lớn opera thành một nhạc cảnh nhỏ để Văn công R có thể biểu diễn phục vụ tại chiến trường.
Sau niềm hạnh phúc to lớn được đón người vợ yêu thương và ba đứa con từ Sài Gòn ra chiến khu sum họp gia đình sau hơn 13 năm xa cách trong dịp Tết 1967, Hoàng Việt lại bắt đầu một thử thách mới. Ông xin tổ chức cho rời chiến khu về với vùng đất ven bờ Cửu Long, vùng chiến sự ác liệt, để lấy cảm hứng thực hiện dự án sáng tác lớn ông hằng ôm ấp: Bản giao hưởng số 2 của ông, mang tên “Cửu Long” .
Nhưng ngay trên bờ kênh Ả Rặt, làng Mỹ Thiện, huyện Cái Bè, Tiền Giang, con kênh nhỏ chảy ra Cửu Long, trong buổi sáng cuối cùng năm 1967, sáng 31.12, Hoàng Việt và những người cùng đi bất ngờ bị máy bay Mỹ tập kích. Hoàng Việt bị trúng đạn rocket của kẻ thù. Ông hy sinh, thân xác hòa tan trong con kênh chảy ra dòng sông Cửu Long. Khi ấy, Hoàng Việt mới vừa qua tuổi 39. Và bản giao hưởng số 2 của đời ông, giao hưởng “Cửu Long”, trở thành bản giao hưởng bỏ dở…