Văn hóa - thực trạng và cảnh báo
Yêu cầu chấn hưng văn hóa cho ngang tầm với nó và xây dựng con người trong giai đoạn mới - kể từ thập niên cuối thế kỷ XX đến nay đang đứng trước bao khó khăn, trở ngại.
Mối quan tâm đến văn hóa – đó là câu chuyện đã được Đảng Cộng sản Việt Nam nêu lên từ 1943, với Đề cương về văn hóa Việt Nam. Qua Đề cương... lần đầu tiên văn hóa được đặt ra trong mối quan hệ với kinh tế và chính trị. Mục 3: Thái độ của Đảng Cộng sản Đông Dương đối với vấn đề văn hóa trong Phần I của Đề cương được ghi: “Mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa) ở đó người cộng sản phải hoạt động”. Từ 1943, chỉ hai năm sau, ngay sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công Hồ Chủ tịch đã nêu yêu cầu chống ba loại giặc – đó là giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm. Kể từ 1945, hoạt động văn hóa dựa trên ba phương châm của Đề cương: dân tộc hóa, đại chúng hóa và khoa học hóa đã góp phần tạo nên một gương mặt mới, một sức sống mới cho đời sống tinh thần của dân tộc, như được diễn tả một cách sinh động trong đoạn mở đầu Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam – năm 1948, của Trường Chinh: “Súng đang rền nổ ngoài mặt trận. Ngọn lúa xanh đã nhuốm cánh đồng. Tiếng sắt rít, tiếng động cơ các xưởng máy đang hòa nhịp với tiếng lọc cọc của các xe thồ và tiếng đòn gánh kẽo kẹt trên vai các đoàn tiếp tế, vận tải. Mấy cái đầu khoa học đang chụm lại trong các phòng thí nghiệm của quân giới hay bên bàn mổ ở các bệnh viện. Giọng đánh vần vang lên trong các xóm làng hẻo lánh. Đài phát thanh ngày ngày tung tin tức Việt Nam kháng chiến ra thế giới, sau các điệu nhạc Diệt phát xít, Tiến quân ca...”.
![]() | |
Làng quê | Ảnh: Nguyễn Quang Tuấn |
Như vậy là, có thể nói, suốt từ 1943 (khi Đảng công bố Đề cương văn hóa) đến 1990 khi phe xã hội chủ nghĩa tan vỡ, mối quan hệ giữa ba phương diện đó, cần thiết, hoặc nhất thiết phải lấy chính trị làm trung tâm. Bởi sự hiện diện của các loại kẻ thù của dân tộc, của giai cấp, trong một thế giới chia làm hai phe, khiến cho vấn đề Ai thắng ai? luôn luôn được đặt ở hàng đầu; và tính chiến đấu phải được quán triệt cho mọi loại hình hoạt động tư tưởng.
Phải từ 1990 về sau, khi cuộc chiến với các loại đế quốc và công cuộc cải tạo các tầng lớp hữu sản cơ bản đã kết thúc, và trong những bước đi đầu tiên vào kỷ nguyên hội nhập, thì hai phương diện kinh tế và văn hóa sẽ nổi lên như một quan hệ gắn kết, làm nên gương mặt của dân tộc, và do đó, cũng quy định gương mặt mới cho con người. Từ đây, việc xây dựng một quan hệ cân đối, hài hòa giữa kinh tế và văn hóa sẽ làm nên đặc trưng mới của thời hội nhập. Thế nhưng việc xử lý mối quan hệ này là rất khó khăn vì xuất phát điểm của Việt Nam là một nước nghèo, nên luôn luôn phải chọn kinh tế làm mục tiêu bức xúc nhất, đẻ ra tâm lý (hoặc ham muốn) phải tăng trưởng bằng mọi giá; phải nâng cao GDP; phải chạy theo đồng tiền; phải chèn lấn, cạnh tranh - từ đó mà khó tránh sự suy thoái về văn hóa, đạo đức, luân lý, làm đẻ ra nhiều tệ nạn xã hội.
Trở lại sự cân bằng này, tức là trả lại cho con người hai mục tiêu: sống cho sướng hơn (kinh tế) và sống cho tốt hơn (văn hóa). Rõ ràng là sau hơn hai mươi năm đổi mới và hội nhập, đời sống vật chất của cộng đồng và cá nhân đã được nâng lên rất nhiều, nếu so các nạn đói khủng khiếp ta đã trải qua với các tiệc nhậu tràn trề bia rượu bây giờ; nếu so sự rách rưới trong ăn mặc của toàn dân với các kiểu thời trang của phụ nữ hôm nay; nếu so các lều tranh, quán lá, nhà trọ với khách sạn, nhà nghỉ, biệt thự trên khắp đất nước, không nơi nào là không có, kể từ các đô thị loại một cho đến một làng, bản ở vùng sâu, vùng xa… Rõ ràng là sự no đủ, giàu có đã đến với nhiều bộ phận dân cư (dù chương trình Lục lạc vàng hàng tuần trên tivi, và cuộc sống của người nghèo ở bất cứ đâu vẫn làm cho ta xa xót, quặn lòng). Như vậy là sự phân tầng xã hội vẫn đặt ra nhiều gay gắt, và những bất an xã hội cũng bắt nguồn từ đây, trong tình cảnh nông dân mất đất, người nhà quê không có việc dồn ra thành thị, thanh niên thiếu việc làm, trẻ con - người già ít được chăm nom, và nạn tham nhũng trong bộ máy công quyền rất khó ngăn chặn.
Vậy là sự không cân đối trong kinh tế và văn hóa, tạo nên bức tranh không lạc quan cho xã hội. Và thực trạng đó đã ảnh hưởng rất sâu vào các trạng thái sống của con người. Con người có bộ phận đã được sống sướng hơn, hoặc rất sướng, nhưng lại đứng trước nguy cơ suy thoái về đạo đức, lối sống, khi đồng tiền lên ngôi. Con người muốn sống cho tốt hơn nhưng lại vấp phải những hạn chế trong cả một hệ thống giáo dục, văn hóa, khoa học xã hội, khoa học nhân văn xuống cấp. Những minh chứng cho kết luận này đã được nói đến trong nhiều năm qua, trên khắp các lĩnh vực, nhưng phương hướng khắc phục còn là rất chậm.
Tóm lại, yêu cầu chấn hưng văn hóa cho ngang tầm với nó và xây dựng con người trong giai đoạn mới - kể từ thập niên cuối thế kỷ XX đến nay đang đứng trước bao khó khăn, trở ngại – khi mục đích sống, lý tưởng sống của hơn một (hoặc vài) thế hệ bỗng trở nên mơ hồ và bị lung lay; khi những hoạt động nêu gương là rất hiếm (trong bộ máy công quyền, và những lĩnh vực rất cần phải nêu gương); khi sự kiếm tiền để mưu sinh và làm giàu là gay gắt; khi giáo dục và khoa học không thực hiện được các chức năng cơ bản của nó; khi hoạt động văn hóa mất định hướng bảo vệ và nâng cao các giá trị chân thiện mỹ, mà chạy theo nhu cầu kiếm tiền và giải trí… tất cả đó đã là bối cảnh, khiến cho việc xây dựng con người rất khó đến được với những cái đích mong muốn.
Nhưng chắc chắn thực trạng trên không thể không có lối thoát - nếu sớm trở lại được mối quan hệ thăng bằng giữa ba phương diện: chính trị, kinh tế, văn hóa; cả ba cần trở lại đúng vị trí của chúng; và điều đó tùy thuộc trước hết vào một điều hành vĩ mô – nằm ở vai trò lãnh đạo của Đảng, vào những người được phân công trách nhiệm trong bộ máy công quyền - từ thấp lên cao, phải thực có tâm, có tầm và có tài.
*
* *
Trong công cuộc xây dựng văn hóa – tương ứng với chiều rộng của các hoạt động tinh thần của con người, rất cần một sự quan tâm đến đội ngũ trí thức thuộc các lĩnh vực văn học - nghệ thuật, khoa học công nghệ, khoa học nhân văn, khoa học xã hội... Do vậy bàn về thực trạng văn hóa, cũng nên dành một vài nét cho đối tượng trí thức – vốn là câu chuyện xem ra chưa phải đã hết vấn đề để bàn kể từ khi khai sinh nền Dân chủ Cộng hòa. Và cho đến nay, khi đất nước chuyển vào Kỷ nguyên thông tin và hội nhập buộc chúng ta phải xây dựng một xã hội học tập và một nền kinh tế trí thức; khi văn hóa đang trở thành sức mạnh nội sinh cho sự phát triển; khi sự phát triển về mọi phương diện của dân tộc phải dựa trên nền tảng văn hóa mới có thể giữ được cho dân tộc có gương mặt riêng, và bảo đảm được sự cân đối và bền vững mà không sa vào so lệch, khủng hoảng và suy thoái.
Nói trí thức là nói một câu chuyện dài trong lịch sử dân tộc, và lịch sử thời hiện đại. Sáng tạo văn hóa – đó là kết quả tổng hợp hoạt động của mọi tầng lớp làm nên cộng đồng dân tộc trong hàng ngàn năm lịch sử. Từ khi được tiếp xúc với chủ nghĩa Mác, ta đã quen với nguyên lý: quần chúng nhân dân làm nên lịch sử. Xét đến cùng đúng là như thế. Nhưng nhân dân là một khái niệm rộng, phải xác định người đại diện. Từ sau 1945, đó là công - nông - binh, trong liên minh với trí thức, để có yêu cầu công nông hóa trí thức và trí thức hóa công nông. Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, đó là giai cấp công nhân và Đảng tiên phong… Xã hội thay đổi theo chiều hướng văn minh, với vai trò hàng đầu của cách mạng khoa học kỹ thuật làm thay đổi cấu trúc xã hội và làm rạn vỡ, thậm chí đảo ngược các trật tự cũ. Việc xây dựng một xã hội học tập và một nền kinh tế trí thức buộc phải sắp xếp lại các thang bậc giá trị, khiến cho tầng lớp trí thức, dầu muốn hoặc không, phải dần dần được coi trọng. Từ nay trí thức là trí thức. Họ không còn phải bám víu vào ai đó để được xem là trí thức công nông (theo cách hiểu tích cực), hoặc trí thức tiểu tư sản (theo cách hiểu tiêu cực). Càng không phải là trí thức tư sản. Mà là một thành phần cơ bản trong các bộ phận cư dân làm nên xã hội hiện đại(1). Những ngộ nhận này cùng với việc coi nhẹ hoặc coi rẻ giới trí thức một thời dài, bắt đầu từ khẩu hiệu: “trí, phú, địa, hào – đào tận gốc, trốc tận rễ” từ đầu những năm ‘30, qua công cuộc Cải cách ruộng đất và Chỉnh đốn tổ chức đầu những năm ‘50, cho đến cách thức xử lý đối với đội ngũ trí thức ở miền Nam sau 1975; không kể các “vụ - việc” lớn nhỏ xảy ra trong công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và các cuộc đấu tranh tư tưởng trên miền Bắc từ sau 1954 đến 1975... là có nguyên cớ của nó; đưa đến những căng thẳng và phân rã trong cộng đồng dân tộc và làm chậm bước đi của lịch sử. Riêng trong các lĩnh vực văn hóa, tinh thần thì đương nhiên trí thức là lớp người có vai trò sáng tạo nhất và đứng ở vị trí trung tâm – như Nghị quyết 5 Khóa VIII đã ghi: “Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng”. Nhân đây tôi xin đề nghị Ban Tuyên giáo, hoặc Hội đồng lý luận Trung ương có một khảo sát, hoặc một cuộc trao đổi về tâm trạng và nguyện vọng của các giới trí thức hiện nay, để biết họ đang mong muốn những gì và nên được ứng xử như thế nào?
Trở lại câu chuyện thực trạng văn hóa ta đang bàn. Dường như có một nghịch lý đang diễn ra trong đời sống hôm nay. Khi, trên lý thuyết, vai trò văn hóa đang được nhấn mạnh, được suy tôn, được đặt thành mục tiêu hàng đầu hoặc số một cho mọi mặt hoạt động của con người, thì trong thực tế, nó lại gần như bị xa lánh, bị buông lỏng, bị coi nhẹ, khiến cho đâu đâu cũng cất tiếng kêu báo động vì sự xuống cấp trầm trọng của nó; khiến cho văn hóa trở thành yêu cầu (hoặc khát vọng) cửa miệng cho tất cả mọi lĩnh vực sống con người, như: văn hóa công sở, văn hóa gia đình, văn hóa thầy trò, văn hóa lễ hội - đền chùa, văn hóa chợ búa, văn hóa giao thông, văn hóa kinh doanh, văn hóa ẩm thực, văn hóa giao tiếp, văn hóa ứng xử, văn hóa nhậm chức, văn hóa từ chức, văn hóa nghị trường... Có nghĩa là – nơi đâu trên khắp mặt đời sống hôm nay đều rất cần đến văn hóa! Rất cần bởi vì nó quá thiếu!
___________________
(1) Xã hội hiện đại gồm năm thành phần cư dân: - những người hoạt động chính trị - những người thuộc bộ máy hành chính - các giới doanh nhân - giới trí thức - người lao động có tay nghề cao.