Ứng phó với biến động mức sinh
Nếu nhìn một cách tổng thể, Việt Nam đang sở hữu một biểu đồ tháp dân số rất đẹp và là đáng mơ ước đối với nhiều quốc gia khác với số người trong độ tuổi lao động gấp đôi người ngoài tuổi lao động. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, hiện sự chênh lệch mức sinh giữa các vùng miền là rất lớn.
![]() Nguồn: ITN |
Mức sinh giảm thấp ở một số địa phương
Đại diện Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình (DS - KHHGĐ), Bộ Y tế cho biết, nhìn tổng thể về quy mô dân số, chúng ta có thể yên tâm với việc đạt mức sinh thay thế hiện nay, mỗi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có khoảng 2,05 - 2,1 con. Năm 2014, trong khi tổng tỷ suất sinh cả nước là 2,09 con thì tổng tỷ suất sinh tại một số khu vực rất thấp. Khu vực thành thị là 1,85; vùng Đông Nam Bộ 1,56; đồng bằng sông Cửu Long 1,84. Tổng tỷ suất sinh bình quân ở khu vực thành thị 14 năm qua (từ 2001 - 2014) là 1,8. Vài năm trở lại đây, TP Hồ Chí Minh nơi đông dân nhất cả nước (xấp xỉ 8 triệu dân) luôn được nhắc đến là địa phương có tỷ lệ sinh thấp nhất toàn quốc, với ngưỡng xung quanh 1,3 - 1,39 con/phụ nữ.
Ông Trần Văn Trị, Chi cục trưởng Chi cục DS - KHHGĐ TP Hồ Chí Minh nhận định, có nhiều yếu tố hình thành xu hướng phụ nữ thành phố ngại sinh đẻ, trong đó điều kiện kinh tế như chi phí nhà cửa, giáo dục, y tế, chăm sóc chất lượng sống đóng vai trò quan trọng, đặc biệt đối tượng là các cặp vợ chồng công nhân ở khu công nghiệp - khu chế xuất. Mặt khác, theo Giám đốc Trung tâm Chăm sóc sức khỏe sinh sản TP Hồ Chí Minh Nguyễn Ngọc Thông, nhiều người coi trọng công danh, sự nghiệp nên xem con cái trở thành gánh nặng cản trở và cũng không hiếm phụ nữ quan niệm sinh đẻ nhiều gây mất thẩm mỹ, từ đó hình thành tâm lý ngại sinh con.
Nếu mức sinh không được cải thiện, sẽ dẫn đến nguy cơ dân số suy giảm, thiếu nguồn lao động, giai đoạn cơ cấu dân số vàng ngắn lại, già hóa dân số diễn ra nhanh… gây bất lợi đối với sự phát triển kinh tế, xã hội. |
Theo báo cáo của Chi cục DS - KHHGĐ TP Hồ Chí Minh, 6 tháng đầu năm 2015, tổng số trẻ được sinh là 21.660, giảm 3.610 (giảm hơn 14%) so với cùng kỳ năm 2014. Điều đáng ngại là mức sinh này vẫn có thể tiếp tục giảm trong thời gian tới, sẽ tác động mạnh đến cơ cấu dân số bởi tỷ lệ người trẻ và người trong độ tuổi lao động ngày càng giảm, trong khi nhóm dân trên 65 tuổi ngày càng tăng.
Tiềm ẩn nguy cơ bùng nổ dân số
Mức sinh đã giảm thấp và có xu hướng giảm nữa ở một số địa phương. Song, tại Tây Nguyên, miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ, tỷ lệ sinh lại rất cao, có nơi lên tới 4 con. Tình trạng sinh con thứ 3 trở lên có dấu hiệu tăng trở lại. Đơn cử, tại Hà Tĩnh, cứ 4 đứa trẻ sinh ra lại có 1 trẻ là con thứ 3 trở lên.
Bên cạnh đó, chênh lệch mức sinh giữa các thành phố lớn với khu vực nông thôn cũng ở mức cao, là 0,55 con. Đây cũng là mối lo ngại cho nhà hoạch định chính sách vì nơi có chất lượng dân số thấp thì có mức sinh nhiều, còn nơi có chất lượng dân số cao lại hạn chế sinh. Cụ thể, tại Hà Giang, ở vùng thành phố, trung tâm tỉnh, nhiều năm qua, mỗi phụ nữ chỉ sinh 2 con, tỷ lệ sinh con thứ 3 là 3%, mức thấp so với mặt bằng chung cả nước, trong tỉnh. Thế nhưng, tại các huyện vùng núi, mức sinh rất cao, khoảng 3 - 3,5 con/phụ nữ.
Ông Nguyễn Văn Tân - Phó tổng cục trưởng phụ trách Tổng cục DS - KHHGĐ, Bộ Y tế đưa ra dẫn chứng, chứng minh cho tính bất ổn của mức sinh hiện nay, nếu như trong cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, 3 vùng địa lý là đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ có tổng tỷ suất sinh dưới 2,1 con thì đến năm 2014, trong cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ, mức sinh ở đồng bằng sông Hồng đã tăng lên 2,3 con, tỷ lệ sinh con thứ 3 cũng tăng. Điều này cho thấy, mức sinh mà nước ta đã đạt và duy trì trong suốt 10 năm qua không phải là một kết quả vững chắc.
Thực tế đó đã đặt ra yêu cầu là không thể buông lỏng mục tiêu giảm sinh, bảo đảm đi đúng quỹ đạo của phương án duy trì mức sinh thấp hợp lý đã được lựa chọn trong Chiến lược Dân số và Sức khỏe sinh sản Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020. Nếu buông lỏng một cách đột ngột, không có thời gian chuẩn bị cho việc thay đổi chính sách, một lần nữa chúng ta sẽ tạo nên một đợt khủng hoảng dân số trong ngắn hạn - ông Nguyễn Văn Tân nhấn mạnh.
Tại Hội nghị Đối thoại chính sách và dân số MTTQ Việt Nam với phát triển bền vững được tổ chức mới đây, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam Nguyễn Thiện Nhân cho rằng, việc thay đổi toàn diện chính sách dân số sau khi đạt mức sinh thay thế là để bảo đảm phát triển kinh tế - xã hội bền vững sau năm 2015. Theo đó, tình trạng mức sống càng tăng thì tỷ suất sinh càng thấp ở nhiều nước là không thể tránh khỏi. Nếu chúng ta đưa ra một xu hướng mức sinh không hợp lý thì 20 năm nữa, Việt Nam sẽ chịu hậu quả như Đức, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc. Những nước này, trong vòng 30 - 40 năm qua duy trì tổng tỷ suất sinh dưới mức thay thế, hậu quả là hiện nay đã thiếu lao động trầm trọng, tỷ lệ lao động nhập cư nhiều, tình trạng người trẻ càng giảm còn người già ngày càng tăng. Các quốc gia này đã để mức sinh thay thế thấp trong thời gian dài, dẫn đến thiếu hụt lao động, già hóa dân số. Trên thực tế, nhiều nước thành công trong mục tiêu giảm sinh, nhưng chưa nước nào khuyến sinh thành công.
Như vậy, vấn đề đặt ra cho ngành dân số là phải có giải pháp đặc thù để nâng tối thiểu mức sinh hiện nay ở khu vực thành phố bằng mức sinh thay thế, đồng thời kiểm soát mức sinh ở khu vực nông thôn, miền núi. Bên cạnh đó, cần phải xây dựng và ổn định hệ thống làm công tác DS - KHHGĐ và chuyển đổi trọng tâm từ công tác KHHGĐ sang vừa KHHGĐ vừa nâng cao chất lượng dân số với sự phát triển toàn diện, bền vững.