Tư tưởng Việt Nam: Nhân bản thực tại luận
Bài 4: Nguyễn Trãi - Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Kho tàng văn chương bác học Việt Nam hẳn nhiên là phong phú, thâm trầm, sâu lắng, bay bổng và trí tuệ. Trong phần biên khảo giới hạn này, chỉ đề cập đến ba nhà văn hóa lỗi lạc của Việt Nam được thế giới ngày nay ca ngợi, đó là Nguyễn Trãi, Nguyễn Du và Hồ Chí Minh.
>> Bài 3: Thực chất từ thực tại
>> Bài 2: Dĩ bất biến ứng vạn biến
>> Bài 1: Truyền thuyết biến hóa
Nguyễn Trãi (1380 - 1442) xuất hiện trong lịch sử Việt Nam như là một mẫu người toàn diện và điển hình. Ở Nguyễn Trãi, có thể bắt gặp tình người Việt Nam, tâm hồn Việt Nam và trí tuệ Việt Nam. Sau thế kỷ XV, các nhà trí thức Việt Nam xưng Người là nhà yêu nước vĩ đại, nhà tư tưởng, văn hóa lỗi lạc, nhà chiến lược tài tình, nhà ngoại giao tài giỏi, nhà thơ lớn của thời đại... Thế giới hôm nay gọi Người là một nhà văn hóa, một nhân cách lớn của thời đại. Người viết khảo luận này thì nhìn toàn bộ cuộc đời của Người như là một tòa kiến trúc Việt Nam đẹp đẽ, hùng vĩ, và hân hoan chiêm ngưỡng từng góc cạnh. Càng chiêm ngưỡng càng cảm xúc, nghe như từ lâu đài ấy có cung đàn Việt Nam vang vọng khôn nguôi.
Tư tưởng nhân nghĩa
Trong dịp kỷ niệm 600 năm ngày sinh Nguyễn Trãi, tổ chức tại Hà Nội năm 1980, Thủ tướng Phạm Văn Đồng phát biểu trong lời khai mạc: “Có thể nghĩ rằng tư tưởng “nhân nghĩa” là một học thuyết hoàn chỉnh, được trình bày trong toàn bộ tác phẩm của Nguyễn Trãi; về cơ bản, nó rất xa lạ với Nho giáo của Khổng Tử, và điều này chúng ta thấy rõ rệt: Nó gắn liền với sự nghiệp cứu nước cứu dân của dân tộc và nhân dân ta đầu thế kỷ XV; nó bao quát các lĩnh vực nội chính: trị nước và yên dân, “mở đầu nền thái bình muôn thuở”, đấu tranh chống ngoại xâm, vì độc lập và phồn vinh của một nước “văn hiến”, đi tới lập bang giao hòa bình và hữu nghị với các nước lớn, nhỏ, gần, xa”. |
Theo Văn học Việt Nam, Tân Việt, Sài Gòn, 1960, Nguyễn Trãi có rất nhiều trước thuật và sáng tác như: Bình Ngô Đại Cáo (còn nguyên bản), Giao Tự đại lễ (đã mất), Luật Thư (đã mất), Nguyễn Trãi Thi Văn Di Cảo (đã mất), Quân Trung Từ Mệnh Tập (42 bài thư từ giao thiệp với quân Minh: Còn), Thạch Bàn Đồ (đã mất), Ức Trai Địa dư chí (còn), Ức Trai Thi Tập (105 bài thơ chữ Hán: Còn), Ức Trai Di Tập (còn), Ngọc Đường Di Cảo (không còn), Gia Huấn Ca (văn nôm: còn), Bài thơ nôm Tự Thán (còn), Bài thơ nôm Hỏi Thị Lộ (còn), Bài thơ nôm Chợ Trời (còn), Quốc Âm Thi Tập (254 bài: còn). Nay chỉ tìm hiểu tư tưởng nhân nghĩa qua bản hùng văn đầy tinh ba Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi, bản hùng ca mà như vắt ra hết tim óc của nhà yêu nước, thương dân vĩ đại.
Nguyễn Trãi quan niệm nhân nghĩa, hay tình người là chủ trương sống vì hạnh phúc, hiền thiện, an cư lạc nghiệp của nhân dân của mọi giai tầng xã hội trong cùng một nền văn hiến, ngôn ngữ, lãnh thổ và phong tục tập quán: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân/ Quân điếu phạt trước vì khử bạo. Đó là quy định tự nhiên của xã hội, lịch sử. Không dân tộc nào có quyền nhân danh bất cứ quyền năng nào để xâm phạm bờ cõi, văn hóa dân tộc khác. Đó là giá trị của con người, quyền sống của con người như là thiên lý cần được xã hội tôn trọng. Đi ngược, hay vi phạm, giá trị ấy là vi phạm công lý, là bạo ngược cần được trừ khử. Thế nên, các lần Hán, Đường, Nguyên, Tống xâm lược đều thất bại đắng cay. Bởi thế, Lưu Công tham công mà phải thua/ Triệu Tiết muốn lớn càng mau mất/ Toa Đô đã bị bắt ở cửa Hàm Tử/ Ô Mã phải chết ở sông Bạch Đằng/.../Thần, người đều căm giận/Trời, đất chẳng dung tha.
Tư tưởng về quốc gia
Nguyễn Trãi có ý niệm, tư tưởng về quốc gia rất sớm, trước cả phương Tây. Quốc gia bao gồm ba yếu tố cơ bản: Lãnh thổ, dân tộc và chính quyền. Về lãnh thổ, Bình Ngô Đại Cáo viết: “Non nước, bờ cõi đã khác”. Về dân tộc thì: “Bắc, Nam phong tục đã riêng”. Nói đến phong tục là bao hàm cả hiến chế, văn hóa, truyền thống. Về chính quyền thì: “Đế bá tranh hùng cùng Hán, Đường, Nguyên, Tống”. Đấy là quan niệm về quốc gia có giá trị lịch sử rất cao.
![]() |
Tư tưởng yêu nước
Tư tưởng yêu nước, theo Nguyễn Trãi, là yêu dân, trung hiếu với dân, khác hẳn với tinh thần trung, hiếu của Nho học phương Bắc. Nguyễn Trãi đã thể hiện lòng yêu nước, hiếu trung mà Nguyễn Phi Khanh đã dạy: “... rửa thẹn cho nước, trả hận cho nhà mới là đại trung đại hiếu”. Ở đây, ý tưởng thể hiện rõ: Vì độc lập, tự do của dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân là yêu nước, là tình người Việt Nam.
Nguyễn Trãi trọn đời thao thức vì xứ sở, nhân dân, mà không vì quyền lợi của họ Trần, họ Hồ, hay họ Lê, cũng không vì danh vọng, địa vị của bản thân. Trước sự suy sụp của Mạt Trần, Nguyễn Trãi viết: Họ Trần cậy mình giàu mạnh, mặc dân khốn khổ,/ Quên hẳn thiên hạ lớn lao, chẳng hề đoái nghĩ,/ Nhân dân oán ghét mà không biết, lòng trời khiển trách mà chẳng kinh./ Chánh giáo do đó mà suy đồi, kỷ cương do đó mà rối loạn. Với nhà Hồ, Nguyễn Trãi nói: Gần đây, nhân: Họ Hồ ngang ngược,/ Lòng người căm hờn./ Quân Minh thừa dịp hại dân,/ Đảng ngụy manh lòng bán nước./ Hơ lũ đầu đen trên lửa bỏng,/ Đẩy phường con đỏ xuống hang sâu.
Yêu nước là cứu nước cứu dân lúc bị xâm lược, xây dựng kinh tế, quốc phòng, văn hóa, giáo dục lúc thanh bình, lo cho quần chúng an cư lạc nghiệp, vĩnh kiếp thoát khỏi cảnh khốn cùng của nô dịch: Máu mỡ dân chúng nay xây mai dựng/ Chốn châu lý nặng nề sưu dịch;/ Trong xóm làng quạnh vắng cửi canh./ Múc cạn nước Đông hải dễ mà rửa sạch tanh nhơ,/ Đẵn hết trúc Nam Sơn chẳng đủ biên ghi tội ác.
Các đoạn của bản cáo văn thắm thiết tình tự dân tộc, cháy rực lòng yêu nước, yêu dân, chỉ cốt mong: Xã tắc từ nay vững yên,/ Non sông từ nay đổi mới./ Càn Khôn đã bỉ mà lại thái,/ Nhật nguyệt đã mờ mà lại trong./ Đặng mở nền thịnh trị muôn năm./ Đặng rửa vết thẹn thùng nghìn thuở”.
Tâm hồn ấy của Nguyễn Trãi, như nhiều nhà nghiên cứu đã ghi, và như lịch sử đã phô bày, là tuyệt đẹp, thừa hưởng được di sản của văn hóa Phật giáo Lý, Trần, thừa hưởng di truyền của bố mẹ chân tình, thanh cao, thừa hưởng lòng yêu nước, từ bi, trí tuệ của ông ngoại Trần Nguyên Đán, và đặc biệt là di sản văn hóa của dân tộc bùng cháy trong cảnh ly loạn của dầu sôi, lửa bỏng. Đấy là tâm hồn của nhân bản thực tại lịch sử.
Cuộc đời, sự nghiệp và tư duy của Nguyễn Trãi đã để lại nhiều tư tưởng, triết lý sâu sắc của Việt Nam. Con người Việt Nam trước hết phải là con người của độc lập, tự do, hạnh phúc đáng được tôn trọng, phụng sự. Con người đó gắn chặt với xã hội Việt Nam, biết quên mình chống giặc ngoại xâm, biết kham nhẫn, hiếu học, cần mẫn hoàn thiện bản thân, phát triển kiến thức văn hóa, xã hội, chính trị và quân sự. Nói khác đi, con người Việt Nam là của xã hội Việt Nam, phụng sự xã hội Việt Nam; Xã hội Việt Nam là của con người Việt Nam, phụng sự con người Việt Nam. Chỉ có thế, mà không có vấn đề siêu hình nào khác. Đây quả nhiên là tư tưởng “Nhân bản thực tại luận”.