Tủ sách cổ điển: Chinh phụ ngâm
Có thể nói, Chinh phụ ngâm là tác phẩm mở đầu và cũng là một trong những tác phẩm tiêu biểu của giai đoạn văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX, giai đoạn phát triển rực rỡ nhất của dòng văn học viết thời phong kiến.
Chinh phụ ngâm mang hình thức một lời độc thoại nội tâm mà vai chính, cũng là vai duy nhất đứng ra độc thoại trong câu chuyện là một người vợ có chồng tham gia cuộc chiến tranh do triều đình phong kiến chủ xướng, nói về nỗi khổ, phải sống cô đơn, buồn tủi xa chồng. Mở đầu, nhà thơ dựng lên một khung cảnh chiến tranh ác liệt, đất nước thanh bình không còn nữa, nhà vua truyền hịch kêu gọi mọi người tham gia chiến cuộc. Và nàng chinh phụ hình dung cảnh chồng nàng lên đường giúp nước phò vua. Chàng hùng dũng trong chiếc chiến bào màu đỏ và cưỡi con ngựa sắc trắng như tuyết. Chàng ra đi với quyết tâm giành hàng loạt thành trì để dâng lên vua. Cuộc tiễn đưa đầy lưu luyến kết thúc, chinh phụ trở lại phòng khuê và tưởng tượng ra cảnh sống của chồng nơi chiến địa. Hình ảnh “lẫm liệt” của chinh phu đến đây bỗng chìm dần vào giữa một chiến trường đầy oan hồn, tử khí và nàng thấy trào lên trong lòng nỗi lo sợ khủng khiếp về số phận của chồng và niềm đau khổ không nguôi về cuộc sống đơn chiếc của bản thân nàng. Phần chủ yếu của khúc ngâm nhằm diễn tả tâm trạng trở trăn, cô quạnh của chinh phụ. Chồng ra đi, quá kỳ hạn không thấy trở về, cũng không chút tin tức, nàng đành tính thời gian bằng chu kỳ quyên hót, đào nở, sen tàn. Nàng phải làm thay những công việc của chồng (nuôi già, dạy trẻ) và lúc nào cũng trông ngóng ngày chồng về. Nàng giở kỷ vật của chồng ra xem để tự an ủi. Xuân qua rồi đông tới, ngày lại ngày nàng quanh quẩn trước hiên, sau rèm, vò võ dưới đèn khuya, một mình đối diện với hoa, với nguyệt... Không cảnh nào không khêu gợi “trăm sầu nghìn não”. Tìm chồng trong thực không được nàng tìm trong mộng, nhưng tỉnh mộng chỉ càng buồn thêm. Cuối cùng chán chường đến tuyệt vọng, nàng không còn muốn làm việc, biếng trang điểm; nàng lo sợ tuổi trẻ qua đi thì còn đâu là hạnh phúc, thấy thân phận của mình không bằng chim muông cây cỏ, suốt đời được “liền cánh”, “liền cành” và tha thiết khẩn cầu được sống hạnh phúc cùng chồng ở kiếp này. Kết thúc khúc ngâm, chinh phụ hình dung cái ngày chồng nàng chiến thắng trở về giữa bóng cờ và tiếng hát khải hoàn. Chàng sẽ được nhà vua ban thưởng và vợ chồng nàng từ đây sẽ sống hạnh phúc bên nhau trong thanh bình.
Ra đời giữa lúc phong trào nông dân khởi nghĩa chống triều đình phong kiến thối nát nửa đầu thế kỷ XVIII đang lên đến cao trào, Chinh phụ ngâm chính là tác phẩm đề cập đến cuộc chiến tranh phi nghĩa do nhà nước phong kiến Lê-Trịnh phát động lúc bấy giờ nhằm đàn áp nông dân khởi nghĩa. Nhà thơ tố cáo cuộc chiến tranh này từ hai phía: Đối với người chinh phu ra đi, chiến tranh là hình ảnh của chết chóc, tàn lụi (Hồn tử sỹ gió ù ù thổi/Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi); Đối với người chinh phụ ở nhà, chiến tranh là cô đơn, sầu muộn (Trâm cài xiêm giắt thẹn thùng/Lệch tàn tóc rối, lỏng vòng lưng eo). Tóm lại, chiến tranh phi nghĩa thực sự đối lập với cuộc sống của con người.
Nhìn chung, tác giả ý thức được tai họa của chiến tranh, nhưng do hạn chế giai cấp nên chưa thấy rõ tính chất phi nghĩa của nó. Chính vì thế, ở đoạn đầu khúc ngâm tác giả còn lý tưởng hóa hình ảnh của người chinh phu lúc ra đi, và đến kết thúc khúc ngâm, để cho người chinh phụ tưởng tượng chồng nàng sẽ trở về trong quanh vinh, mặc dù văn mạch gượng ép của câu thơ cũng nói lên rằng, đó chỉ là ảo tưởng. Dĩ nhiên, không vì thế khúc ngâm giảm bớt giá trị. Bởi lẽ, ý nghĩa sâu xa của nó là ở chỗ, nó đặt vấn đề hạnh phúc lứa đôi, hạnh phúc tuổi trẻ, không phải chỉ trên phương diện thuần túy tinh thần mà ít nhiều đã mang màu sắc khát khao mãnh liệt được gần gụi, được ân ái (Sánh nhau cùng dan díu chữ duyên...). Và vấn đề hạnh phúc của tình yêu, được đặt ra trong sự chuyển hóa về màu sắc như thế, lại được khẳng định bằng sự đối lập với lý tưởng công danh của chế độ phong kiến (Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong), cũng như đối lập cả với quan niệm thông thường về “quả phúc” của nhà Phật (Theo kiếp này hơn thấy kiếp sau). Vì thế, khúc ngâm đã đạt giá trị nhân đạo chống phong kiến sâu sắc.
Về nghệ thuật, với bút pháp tượng trưng ước lệ được nâng lên mức cao, Đặng Trần Côn đã biết chiết ra từ trong kho tàng văn thơ chữ Hán cổ những câu phù hợp nhất với ý tứ của mình và dụng công sắp xếp thành một kết cấu hoàn chỉnh như một sáng tạo mới mẻ, phô diễn thật sát từng trạng thái khác nhau của nỗi lòng chinh phụ. Thể thơ trường đoản cú mà ông sử dụng rất giàu nhạc tính; Tiết tấu nhịp điệu biến hóa sinh động tùy theo yêu cầu của nội dung. Chính đó là lý do khiến cho Chinh phụ ngâm được nhiều người hâm mộ xem như một mẫu mực về sự uẩn súc, tinh luyện của văn chương.
Nguyễn Lộc