Từ Nghị quyết 66-NQ/TW đến thực tiễn cấp xã:Bài 1: Đưa pháp luật đến gần dân hơn
Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết số 66-NQ/TW về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, cùng Nghị quyết số 68-NQ/TW, Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định: Nghị quyết 66-NQ/TW của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới là một trong “Bộ tứ nghị quyết trụ cột” giúp đất nước cất cánh...
Hiện thực hóa Nghị quyết, để pháp luật thật sự đi vào đời sống, không ở đâu khác ngoài cấp xã - nơi gần dân nhất, nơi những quy định được hiện thực hóa trong từng mái nhà, thửa ruộng, con đường làng. Ở đó, hoạt động của HĐND xã trở thành điểm tựa để chính sách thành niềm tin của dân.
Chặt chẽ nhưng cần rõ ràng, dễ hiểu
Trong thực tiễn tham mưu giải quyết hồ sơ tặng cho quyền sử dụng đất đứng tên “Hộ ông, bà”, người dân thường bức xúc vì thủ tục chứng thực hợp đồng đòi hỏi quá nhiều giấy tờ. Ngoài chứng minh quan hệ với chủ sở hữu, họ còn phải xuất trình giấy đăng ký kết hôn, giấy khai sinh, xác nhận tình trạng hôn nhân… Trong khi đó, việc xác định hàng thừa kế, từ chối di sản và các quan hệ liên quan đến chủ sở hữu vốn đã hết sức phức tạp. Một khó khăn khác trong quá trình thực thi Luật Hộ tịch là luật và các văn bản hướng dẫn hiện hành chưa có quy định về việc cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân cho người đã qua đời. Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều cơ quan khi giải quyết thủ tục hành chính - đặc biệt là các tổ chức hành nghề công chứng - vẫn yêu cầu người dân nộp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân của những người liên quan đến hợp đồng, giao dịch, kể cả đối với trường hợp đã mất - bà Bùi Thị Tam - phường Trường Vinh, tỉnh Nghệ An chia sẻ.

“Quy định pháp luật chặt chẽ là đúng, nhưng cần rõ ràng, dễ hiểu để người dân dễ thực hiện. Nghiên cứu các quy định về đất đai, tôi thấy nhiều cụm từ lặp đi lặp lại như: theo quy định của pháp luật, theo quy định của Chính phủ, cấp có thẩm quyền... Nghĩa là, để giải quyết được một vấn đề, người dân lại phải tra cứu thêm hàng loạt văn bản khác để biết cụ thể “quy định pháp luật nào”, “cấp có thẩm quyền là ai”... Theo tôi, các quy định cần đơn nghĩa, rõ ràng, để khi tiếp cận là người dân có thể áp dụng ngay” - bà Lê Thúy Hằng, xã K’Rông Năng, tỉnh Đắk Lắk chia sẻ.
Điều bà Hằng nói khiến tôi nhớ mãi một hình ảnh rất gợi nhớ từng chứng kiến ở một xã miền Trung Tây Nguyên. Trụ sở UBND xã khi ấy đông nghịt bà con đến làm thủ tục cấp đổi giấy tờ. Người thì ngồi chờ sốt ruột, người loay hoay hỏi han, còn một cụ già thì thở dài: “Hồ sơ, tờ khai gì mà nhiều thế này, đọc không hiểu gì cả...”. Câu nói ngắn gọn, mộc mạc ấy đã chạm đúng vào “điểm nghẽn” bấy lâu nay: pháp luật vốn dĩ để phục vụ dân, nhưng nhiều khi lại trở nên xa dân, khó gần.
Qua nhiều chuyến đi cơ sở, tôi nhận thấy một nghịch lý: người dân thường nhớ rất rõ các khoản phải đóng, nghĩa vụ phải thực hiện, nhưng lại mơ hồ về chính những quyền lợi pháp luật dành cho mình, nhất là trong lĩnh vực đất đai, chính sách xã hội, hộ tịch, chứng thực. Không ít thủ tục hành chính còn rườm rà, cách giải thích khó hiểu; bảng niêm yết ở trụ sở xã thì chữ nhỏ, treo ở chỗ ít người để ý, nên càng khó tiếp cận. Công tác tuyên truyền pháp luật ở cơ sở đôi khi còn nặng hình thức: treo vài băng rôn, phát loa, tổ chức vài buổi tuyên truyền… nhưng thiếu đối thoại trực tiếp, thiếu những ví dụ gắn với đời sống để người dân dễ hình dung và áp dụng.
Không chỉ người dân hay doanh nghiệp lúng túng trước văn bản pháp luật, mà ngay cả cơ quan quản lý cũng gặp tình huống tương tự. Ngoài những vấn đề phát sinh chưa kịp được điều chỉnh bằng luật hoặc nghị định, một nguyên nhân quan trọng khiến địa phương phải hỏi đi hỏi lại là do quy định còn thiếu rõ ràng, chưa thống nhất trong cách hiểu và áp dụng. Đây cũng là trăn trở lớn đối với những người làm công tác dân cử ở cấp xã.
Bắc cầu nghị quyết đi vào cuộc sống
Luật số 72/2025/QH15 về Tổ chức chính quyền địa phương đã quy định rất rõ tại Điều 5: “Hội đồng nhân dân giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước ở địa phương”. Đặc biệt, ở cấp xã, một trong những nhiệm vụ quan trọng mà Luật giao phó là quyết định biện pháp bảo đảm thi hành Hiến pháp, pháp luật và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên trên địa bàn (điểm a khoản 1 Điều 21). Như vậy, HĐND xã được ví như “cầu nối tin cậy” giữa chính sách và cuộc sống, là “tai mắt của dân” trong giám sát UBND và các cơ quan ở xã thực thi pháp luật. Từ quản lý đất đai, ngân sách, đến y tế, giáo dục, bảo hiểm xã hội… đều cần sự giám sát để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. Một câu hỏi tưởng như giản đơn: “Người dân có được làm những gì pháp luật không cấm hay không?” - lại chính là phép thử cho trách nhiệm của chính quyền cơ sở trong việc bảo vệ quyền của dân.
Với hai chức năng cốt lõi là quyết định và giám sát, HĐND xã hiện nay được trao nhiều quyền năng hơn khi chính quyền địa phương vận hành theo mô hình 2 cấp. Để Nghị quyết 66 thật sự đi vào đời sống, HĐND xã phải trở thành “cầu nối tin cậy” để chính sách hiện hữu trong từng việc nhỏ, cụ thể ở cơ sở: từ việc một người dân đi làm giấy khai sinh không phải đi lại nhiều lần, một hộ nghèo nhận trợ cấp đúng thời hạn, đến một dự án được công khai, minh bạch để dân giám sát. Nói đến Nghị quyết 66, suy cho cùng là nói đến niềm tin. Niềm tin ấy không đến từ những khẩu hiệu, mà từ những trải nghiệm gần gũi của người dân. Pháp luật chỉ thực sự có sức sống khi đi vào từng mái nhà, thửa ruộng, con đường làng. Và hành trình nuôi dưỡng niềm tin ấy bắt đầu từ cấp xã - cấp chính quyền gần dân nhất, cũng là nơi thử thách nhất của tinh thần “đột phá của đột phá”.