Từ khái niệm cơ bản đến chính sách và nguyên tắc thực thi nhiệm vụ biên phòng
Dự án Luật Biên phòng Việt Nam sẽ được trình Quốc hội cho ý kiến lần đầu tại Kỳ họp thứ Chín tới. Để nội hàm của dự thảo Luật phù hợp với tên “Luật Biên phòng Việt Nam” đã được xác định tại Nghị quyết số 78/2019/QH154 ngày 11.6.2019 của Quốc hội, cũng như Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 28.9.2018 của Bộ Chính trị về Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia thì một trong những yêu cầu quan trọng là phải xác định rõ phạm vi điều chỉnh và nội dung, bố cục của dự thảo Luật, bảo đảm tính thống nhất, tránh chồng chéo với quy định có liên quan trong các luật khác. Trong đó, cần làm rõ hơn các khái niệm “biên phòng”, quy định về “chính sách của Nhà nước về biên phòng” và “nguyên tắc thực thi nhiệm vụ biên phòng”.
Làm rõ nội hàm của khái niệm “biên phòng”
“Biên phòng” là khái niệm cơ bản, có ý nghĩa rất quan trọng làm cơ sở để quy định về nhiệm vụ biên phòng, lực lượng thực thi nhiệm vụ biên phòng và các nội dung khác có liên quan. Khoản 1, Điều 2 dự thảo Luật giải thích “Biên phòng là công cuộc xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, khu vực biên giới bằng sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc; trong đó các bộ, cơ quan ngang bộ, chính quyền địa phương, lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt”. Tuy nhiên, Luật Biên giới quốc gia năm 2003, có thể coi đây là luật “gốc” về biên giới quốc gia, đã quy định về biên giới quốc gia; chế độ pháp lý về biên giới quốc gia; xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia và khu vực biên giới. Do đó, cần rà soát, làm rõ nội hàm khái niệm “biên phòng” để tránh chồng chéo với phạm vi điều chỉnh của Luật Biên giới quốc gia.
Ngoài ra, quy định “các bộ, cơ quan ngang bộ, chính quyền địa phương, lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt” trong khái niệm “biên phòng” cũng cần cân nhắc để bảo đảm tính thống nhất khi xác định nhiệm vụ của từng lực lượng, nhất là vai trò “nòng cốt”. Bởi lẽ, theo Khoản 1, Điều 31, Luật Biên giới quốc gia thì xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, khu vực biên giới là nhiệm vụ của Nhà nước và của toàn dân, trước hết là của chính quyền, nhân dân khu vực biên giới và các lực lượng vũ trang nhân dân. Luật này cũng chỉ quy định “Bộ đội biên phòng là lực lượng nòng cốt, chuyên trách, phối hợp với lực lượng công an nhân dân, các ngành hữu quan và chính quyền địa phương trong hoạt động quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở khu vực biên giới theo quy định của pháp luật”.
Hơn nữa, cách giải thích khái niệm “biên phòng” cũng gần giống như cách giải thích khái niệm “Quốc phòng là công cuộc giữ nước bằng sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, trong đó sức mạnh quân sự là đặc trưng, lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt” tại Khoản 1, Điều 2, Luật Quốc phòng năm 2018. Có thể nói, khái niệm “biên phòng” phải hẹp hơn hoặc nằm trong phạm trù khái niệm “quốc phòng”. Do đó, dự thảo Luật chỉ nên giải thích khái niệm “biên phòng là công cuộc xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, khu vực biên giới bằng sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc”.
![]() Nguồn: ITN |
Chính sách vừa trùng vừa thiếu
Về chính sách của Nhà nước về biên phòng, theo quy định tại Điều 3 dự thảo Luật gồm có 7 nội dung. Một là, thực hiện chính sách độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; mở rộng hợp tác quốc tế, đối ngoại quốc phòng, an ninh, đối ngoại biên phòng. Hai là, giải quyết bất đồng, tranh chấp về biên giới bằng biện pháp hòa bình, tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bình đẳng phù hợp với Hiến pháp, pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Ba là, thực hiện chính sách hòa bình, tự vệ; sử dụng các biện pháp khác để bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc phù hợp với Hiến pháp, pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Bốn là, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, hệ thống chính trị các cấp, nền biên phòng toàn dân trong nền quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân, xây dựng khu vực phòng thủ, giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Năm là, xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học, công nghệ, đối ngoại ở khu vực biên giới; kết hợp chặt chẽ quốc phòng, an ninh với kinh tế - xã hội và kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh. Sáu là, xây dựng lực lượng toàn dân bảo vệ biên giới quốc gia rộng khắp, nhân dân là chủ thể, lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt, Bộ đội Biên phòng là lực lượng chuyên trách. Bảy là, huy động các nguồn lực của cơ quan, tổ chức và cá nhân trong thực thi nhiệm vụ biên phòng.
Tuy nhiên, khi đối chiếu với chính sách của Nhà nước về quốc phòng tại Điều 4 Luật Quốc phòng thì thấy có nhiều nội dung giống nhau. Đơn cử như: Thực hiện độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời; thực hiện chính sách hòa bình, tự vệ; sử dụng các biện pháp chính đáng, thích hợp để phòng ngừa, ngăn chặn, đẩy lùi, đánh bại mọi âm mưu và hành vi xâm lược (Khoản 2); không tham gia lực lượng, liên minh quân sự của bên này chống bên kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ của Việt Nam để chống lại nước khác; không đe dọa hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế; giải quyết mọi bất đồng, tranh chấp bằng biện pháp hòa bình (Khoản 3); huy động nguồn lực của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong nước để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng (Khoản 4)…
Trong khi đó, dự thảo Luật lại thiếu một số chính sách, như: Khuyến khích, tạo điều kiện để cơ quan, tổ chức, cá nhân ủng hộ vật chất, tài chính, tinh thần cho biên phòng trên nguyên tắc tự nguyện, không trái với pháp luật Việt Nam và phù hợp với luật pháp quốc tế; chính sách ưu đãi đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong thực hiện nhiệm vụ biên phòng; có chính sách đặc thù ở khu vực biên giới, hải đảo, vùng chiến lược, trọng điểm, địa bàn xung yếu về biên phòng và Nhà nước ghi nhận công lao và khen thưởng cơ quan, tổ chức, cá nhân có thành tích xuất sắc trong thực hiện nhiệm vụ biên phòng.
Mặt khác, Điều 11 Luật Biên giới quốc gia còn quy định Việt Nam thực hiện chính sách xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định lâu dài với các nước láng giềng; giải quyết các vấn đề về biên giới quốc gia thông qua đàm phán trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích chính đáng của nhau. Do đó, đề nghị nghiên cứu bỏ Điều 3 và thu hút các nội dung của điều này còn phù hợp vào các điều khoản khác của dự thảo Luật.
Về nguyên tắc thực thi nhiệm vụ biên phòng, Khoản 1, Điều 6 dự thảo Luật quy định “Tuân thủ Hiến pháp, pháp luật của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam”. Nội dung này trùng với Khoản 2, Điều 3 như đã nêu ở trên. Đồng thời, nội dung “tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, biên giới quốc gia của các nước” tại cuối khoản này là không cần thiết vì đây là quy định đương nhiên của pháp luật nước ta cũng như pháp luật quốc tế.
Nguyên tắc “Đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam” tại Khoản 2, Điều 6 cũng cần cân nhắc vì Khoản 1, Điều 3 Luật Quốc phòng đã quy định nguyên tắc hoạt động quốc phòng là “đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam”. Mặt khác, quy định nguyên tắc thực thi nhiệm vụ biên phòng đặt dưới “sự thống lĩnh của Chủ tịch Nước” tại khoản này là chưa chính xác vì Biên phòng là công cuộc xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, khu vực biên giới bằng sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc chứ không phải chỉ của lực lượng vũ trang. Trong khi đó, theo Khoản 5, Điều 88 Hiến pháp năm 2013 thì chỉ có Chủ tịch Nước có nhiệm vụ, quyền hạn “thống lĩnh lực lượng vũ trang nhân dân” và theo Khoản 1, Điều 24 Luật Quốc phòng thì hoạt động của lực lượng vũ trang nhân dân phải đặt dưới “sự thống lĩnh của Chủ tịch Nước”.
Do đó, đề nghị cần rà soát, chỉnh lý lại Điều 6 để tránh chồng chéo với các quy định khác của pháp luật có liên quan.