Từ thần kỳ Hàn Quốc nghĩ về sự thần kỳ Việt Nam

Ts Nguyễn Đức Kiên
Phó chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế
07/02/2014 08:42

Trong một thế giới phẳng như hiện nay, việc một quốc gia tạo nên được sự bứt phá ngoạn mục trong phát triển kinh tế – xã hội, nâng cao vị thế trên thế giới và cải thiện cơ bản đời sống người dân luôn là tấm gương cho các nước nghèo tham khảo và học tập kinh nghiệm. Hàn Quốc là một quốc gia như vậy.

Với những người làm công tác nghiên cứu, sự phát triển thành công của Hàn Quốc luôn có sức thu hút kỳ lạ. Là một đất nước có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam khi bắt đầu phát triển: đất nước bị tàn phá do chiến tranh và vẫn bị chia cắt; sản xuất chính vẫn là nông nghiệp; người dân chịu thương chịu khó... Vào cuối thập kỷ 70 của thế kỷ trước, Hàn Quốc còn nghèo hơn cả Malaysia và Mexico. Nhưng 30 năm sau, thu nhập bình quân đầu người của Hàn Quốc đã tăng gấp 10 lần và đạt ngưỡng 17.000 USD/người/năm, cao gấp 2 lần so với Malaysia và Mexico. Vào năm 1997-1998, Hàn Quốc cũng rơi vào vòng xoáy khủng hoảng tài chính châu Á và nhiều nhà kinh tế lo ngại cho sự ổn định và phát triển của Hàn Quốc. Thế nhưng trong thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XXI, Hàn Quốc đã tự tái tạo để tạo nên sự thần kỳ thứ hai của châu Á. Từ một quốc gia làm thuê, Hàn Quốc đã không chỉ tạo ra chất liệu mà còn thiết kế, phát triển các sản phẩm công nghệ mới dựa trên nền công nghệ số và vật liệu nano để tạo ra các thương hiệu riêng, chiếm lĩnh thị trường thế giới với phong cách riêng và sự lịch lãm trong từng sản phẩm. Điển hình là các sản phẩm của LG, Samsung đã chiếm lĩnh ngành công nghiệp điện tử dân dụng nghe nhìn với màn hình LCD. Samsung cũng đang dẫn đầu công nghệ điện thoại 2G, 3G và hiện nay là 4G. Hay Huyndai Motor, trong thế kỷ XX thường được nêu như một ví dụ điển hình của sự bắt chước thuần túy thì giờ đây đã là 1 trong 5 nhà sản xuất ô tô lớn nhất thế giới. Nếu so sánh với sự kỳ diệu Nhật Bản của thập kỷ 60 – 70, thế kỷ trước, chúng ta sẽ thấy có nhiều sự tương đồng về định hướng phát triển đó là thị trường điện tử dân dụng giải trí là Sony, JVC, Hitachi...; trong lĩnh vực truyền hình anolog và thiết bị nghe nhìn gắn với băng từ và sau đó là CD; hoặc trong lĩnh vực công nghiệp sản xuất ô tô là Honda, Toyota, Suzuki... Sự đổi mới của Hàn Quốc hay xa hơn là Nhật Bản không phải chỉ là một sản phẩm trong phòng máy lạnh của cơ quan Chính phủ hay phòng họp Ban điều hành của các doanh nghiệp lớn. Bằng kỷ luật hành chính cộng với xử lý tài chính, chúng ta có thể biến đổi một nông dân hay một học sinh mới tốt nghiệp phổ thông làm việc chăm chỉ hơn, có tác phong công nghiệp hơn nhưng khó có thể yêu cầu họ suy nghĩ sáng tạo hơn. Nhưng Hàn Quốc đã làm được điều này. Người Hàn Quốc đã chấp nhận sự đa dạng, tiếp thu tinh hoa thế giới và quan trọng hơn là đã xóa bỏ được định kiến xã hội, ví dụ định kiến về tư thương, thương lái hay khái niệm chichomex mà một thời người Việt chúng ta hay nói về dịch vụ môi giới tiếp thị sản phẩm.

Toàn cầu hóa với Hàn Quốc lại là một đầu máy góp phần thúc đẩy phát triển. Trong thập kỷ 60-70 của thế kỷ trước, các ngành sản xuất chủ lực của nền kinh tế Hàn Quốc là đồ chơi, quần áo, giày dép... và các sản phẩm yêu cầu vốn đầu tư ít, kỹ thuật thấp. Tất nhiên trong giai đoạn này cần phải kể đến hoàn cảnh lịch sử là Hàn Quốc đã tận dụng được các khoản bội thu được từ quân đội Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Điều quan trọng là khi điều kiện thuận lợi không còn: cuộc chiến chấm dứt, chi phí lao động tăng cao, Hàn Quốc đã chuyển nền kinh tế sang trọng tâm mới: đóng tàu, vi mạch và các sản phẩm công nghệ cao khác.

Tuy nhiên, sự thành công không ngờ về kinh tế được tạo ra bởi các tập đoàn kinh tế với các mối quan hệ chặt chẽ với Chính phủ và ngân hàng vì vậy đầu tư của các tập đoàn luôn tăng trong khi gánh nặng nợ khó trả ngày càng lớn. Sự ru ngủ trong chiến thắng đã làm cho nền kinh tế Hàn Quốc sụp đổ trước cơn bão tài chính châu Á 1997. Nền kinh tế này chỉ trụ được khi phải vay gần 60 tỷ USD từ Quỹ Tiền tệ Quốc tế với nhiều điều kiện ngặt nghèo. Lòng tự trọng dân tộc và yêu cầu khắc nghiệt của nền kinh tế thị trường đã biến thành động lực của sự thay đổi cả về cách kinh doanh, quản trị doanh nghiệp và cuối cùng là cả cách quản lý nền kinh tế. Cuộc khủng hoảng đã làm bộc lộ mối quan hệ hợp tác thân hữu giữa Chính phủ - ngân hàng – công ty và công cuộc thành công nhất chính là phá vỡ được sự liên kết này. Mục tiêu cải cách rất rõ ràng: các tập đoàn – công ty lớn phải thực sự tạo ra được lợi nhuận theo tiêu chí thị trường, phải độc lập với Chính phủ và có khả năng cạnh tranh trên thế giới. Quá trình cải tổ các doanh nghiệp lớn này được thúc đẩy bởi các nguồn tín dụng với tiêu chí vay mới và quan trọng hơn là phương thức quản trị doanh nghiệp tiên tiến từ nước ngoài. Các công ty thua lỗ trong mọi lĩnh vực của nền kinh tế Hàn Quốc, gồm cả ngân hàng, bị bán lại cho các công ty đa quốc gia. Như vậy, có thể nói, các nhà đầu tư nước ngoài đã đóng góp vai trò quan trọng trong việc phục hồi nền kinh tế Hàn Quốc.

Những bài học kinh nghiệm từ Hàn Quốc mà với tôi, với tư cách là một ĐBQH, một nhà nghiên cứu kinh tế cảm nhận được, còn có thể kể dài mãi. Thế hệ chúng tôi học phổ thông ở nơi sơ tán, học đại học trong hòa bình, nhiều lúc hay hỏi những câu hỏi mà bản thân không tự trả lời được: vì sao mình không làm được như họ?

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã được 3 năm, còn 2 năm nữa đến kỳ Đại hội mới. Những gì cần làm để đưa đất nước cất cánh bay lên đều đã được Đảng chỉ rõ. Thế nhưng, sự chuyển biến trên thực tiễn dường như còn chậm. Từ năm 1993, chúng ta đã bắt đầu thí điểm xây dựng công ty cổ phần theo cả hai hướng cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước và thành lập mới công ty cổ phần. 10 năm sau, chúng ta có Nghị quyết Trung ương 3 (Khóa IX) về đổi mới mô hình doanh nghiệp nhà nước và đến 10 năm sau nữa tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước lại được coi là trọng tâm sửa đổi mô hình tăng trưởng. Cũng vấn đề đó, từ khi phát hiện ra bất cập đến lúc đổi mới mô hình và tạo được đột phá, Hàn Quốc chỉ mất chưa đến 10 năm. Phải chăng khi Chính phủ lớn và có hệ thống kiểm soát nghiêm ngặt hơn thì mọi thành công của nền kinh tế đều có bóng dáng hỗ trợ của Nhà nước? Điều này đã tạo ra một định hướng phát triển xã hội không năng động và tạo ra tâm lý dựa vào Nhà nước. Còn khi Chính phủ nhỏ đi và ít can thiệp vào nền kinh tế sẽ tạo ra nhiều khoảng trống mà người dân, trong đó có doanh nghiệp cảm nhận rằng nếu họ làm việc đó tỷ lệ thành công của họ sẽ cao? Từ thành công của một người sẽ thu hút nhiều người cùng hành động dẫn đến thành công của nhiều người và cuối cùng là thành công của dân tộc.

Có thể có sự thần kỳ mang tên Việt Nam trong tương lai hay không? Câu trả lời là: Có!

Bởi, hướng đi đã có, các điều kiện cơ bản để thực hiện cũng đã xuất hiện: Hiến pháp mới thể hiện đầy đủ tư tưởng chỉ đạo của Cương lĩnh mới cho cả thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Quyết tâm chính trị cũng đã có. Vấn đề bây giờ là tổ chức thực hiện.

Để tổ chức thực hiện tốt cần những cá nhân dám chịu trách nhiệm. Truyền thống và lòng tự hào dân tộc là cơ sở để chúng ta tin rằng đất nước luôn có những con người như vậy, những con người bình thường sẵn sàng hy sinh khi Tổ quốc cần.

Hy vọng, năm 2014 không bỏ lỡ thời cơ đưa đất nước đi lên như mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Những đột phá cần thực hiện trong năm 2014 nên là: thu hút nguồn vốn tài chính và kinh nghiệm từ đối tác nước ngoài. Đồng thời, với việc thị trường hóa vốn để quản trị doanh nghiệp nhà nước; giảm bớt việc tranh luận về vấn đề sở hữu trong doanh nhiệp mà tăng cường tính công khai, minh bạch trong hạch toán sản xuất kinh doanh để bảo đảm có lợi nhuận thật sự. Nên chăng cần nghĩ đến một mô hình Chính phủ vừa đủ để tạo sự năng động, sáng tạo hơn cho các chủ thể khác trong quá trình phát triển đất nước và tập trung chăm lo cải thiện đời sống nhân dân. Có lẽ cần bắt tay làm ngay, làm thực chất để năm Giáp Ngọ, đất nước có thể tiến nhanh như ngựa phi nước đại trên con đường phát triển.

    Nổi bật
        Mới nhất
        Từ <i>thần kỳ Hàn Quốc</i> nghĩ về sự thần kỳ Việt Nam
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO