Từ cam kết đến hành động: Đâu là lời giải cho bài toán Net Zero của Việt Nam?
Mục tiêu đưa phát thải ròng khí nhà kính về mức bằng 0 vào năm 2050 là một thách thức vô cùng lớn, nhưng sẽ mở ra nhiều cơ hội cho Việt Nam, do đó, cần những giải pháp thiết thực đúng và trúng để đi tìm lời giải cho bài toán Net Zero của quốc gia.
Đây là nhận định chung của các đại biểu khi chia sẻ tại Tọa đàm “Hướng tới mục tiêu Net Zero - Cơ hội và thách thức” do Báo Đại biểu Nhân dân tổ chức.

Chỉ ra những cơ hội và thách thức mà Việt Nam đang sở hữu trên hành trình hiện thực hoá mục tiêu đạt mức phát thải ròng bằng 0 theo dòng chảy chung của thế giới, TS. Nguyễn Đình Thọ, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách nông nghiệp và môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) thông tin, năm 2026 Việt Nam sẽ phải đối mặt với mức phí 95 EUR cho 1 tấn tín chỉ cacbon. Tuy nhiên nếu có tín chỉ Việt Nam sẽ được khấu trừ tiền mua tín chỉ khi vào thị trường Châu Âu, đó vừa là lợi ích, cơ hội và thách thức.
“Một mặt chúng ta phải thích ứng với những quy chuẩn về bảo vệ môi trường, làm sao để giảm phát thải gây hại cho môi trường theo tuân thủ chung của thế giới nhưng đồng thời phải thích ứng với những diễn biến mới. Thế giới trước đây đẩy mạnh hội nhập và thông thương nhưng nay lại thiên về bảo hộ, thuế xuất tăng tới 500%. Điều này tạo ra rất nhiều thách thức cho Việt Nam trong thời gian tới”, TS. Nguyễn Đình Thọ nhận định.

Cùng với đó, TS. Nguyễn Đình Thọ cũng phân tích những thế mạnh nhưng đồng thời cũng là thách thức của Việt Nam như nguồn lao động dồi dào. Tuy nhiên các nước phát triển đang hạn chế rất nhiều việc di chuyển lao động thông qua giấy phép lao động và các hình thức khác.
Nông nghiệp cũng là một lĩnh vực thế mạnh của Việt Nam, nhưng vấn đề phát sinh hiện nay đó là các nước phát triển đều đang trợ giá cho nông nghiệp và thúc đẩy mạnh những thứ họ đang có.
“Vốn họ có nhiều, họ sẽ đẩy vốn sang các nước đang phát triển, hàng hóa họ là người đi trước nên dư thừa hàng hóa rất nhiều nên cũng xuất khẩu sang các quốc gia khác…”, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách nông nghiệp và môi trường, Bộ Nông nghiệp và Môi trường e ngại.
Từ thực tiễn này, TS. Nguyễn Đình Thọ kiến nghị, cần thông qua cơ chế thị trường, trong đó không hỗ trợ mà chi trả theo đúng nghĩa của Luật Môi trường là chi trả cho dịch vụ sinh thái. Cần thể chế hóa và tạo thuận lợi để cơ chế thị trường phát huy tác dụng, đồng thời xây dựng lộ trình để hàng hóa không tăng quá nhanh nhưng cũng không bị loại bỏ vì thiếu tiêu chuẩn về môi trường.

Chia sẻ tại Toạ đàm, TS. Nguyễn Đình Thọ cho biết việc Viện Chiến lược chính sách Nông nghiệp và Môi trường dã chủ trì, ban hành các tiêu chí hỗ trợ tài chính xanh, tín dụng xanh, trái phiếu xanh...
“Tôi kiến nghị hiện nay nguồn tiền cho các nước đang phát triển là 1.900 tỷ USD cho 3 lĩnh vực năng lượng, giao thông vận tải và xây dựng, con số này sẽ tạo thuận lợi cho sự phát triển của các ngành này. Do đó định hướng của Việt Nam cũng nên đi theo lộ trình như vậy”, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách nông nghiệp và môi trường, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đề xuất.
Cơ chế hỗ trợ 2% lãi suất cũng cần đưa vào thể chế hóa thật nhanh để tổ chức thực hiện, giúp cho doanh nghiệp nhanh chóng tiếp cận vốn để chuyển đổi xanh; tạo cơ chế thông thoáng theo hướng khi giảm phát thải, chuyển đổi xanh thì sẽ được hưởng quyền lợi.

Đứng ở khía cạnh chuyên gia đã có nhiều năm nghiên cứu trong lĩnh vực nông nghiệp, TS. Nguyễn Đăng Nghĩa nhận định, sự chuyển đổi từ số lượng sang chất lượng, hướng tới nông nghiệp bền vững nhằm mục tiêu xây dựng nông sản Việt Nam được dán nhãn, giảm phát thải, an toàn, đồng thời hạn chế tình trạng tỷ lệ ung thư cao hiện nay của người Việt, vốn có nguyên nhân từ môi trường và các hoạt động sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ.
TS. Nguyễn Đăng Nghĩa đề xuất hai giải pháp kỹ thuật cụ thể, trong đó, ưu tiên đẩy mạnh sản xuất bao trả (trồng cây che phủ). “Để thực hiện điều này, cần xã hội hóa và có chính sách hỗ trợ. Cần có chính sách bù vào giá cho nông dân thông qua việc sử dụng tiền mua chứng chỉ carbon từ các doanh nghiệp gây ô nhiễm. Ví dụ, thay vì nông dân phải mua bao trả với giá 6.000 đồng/kg, nếu họ được hỗ trợ mua với giá 4.000 đồng/kg thì họ sẽ áp dụng ngay.”
Cùng với đó, chuyên gia nông nghiệp TS. Nguyễn Đăng Nghĩa đề xuất phát triển mô hình trồng bèo hoa dâu. Một mô hình nuôi bèo thô hướng công nghiệp 1 ha có thể phục vụ cho 200 ha lúa, và cây bèo dâu có mức phát thải thấp hơn tám lần so với cây lâm nghiệp. Bèo hoa dâu, khi xen canh với lúa, là giải pháp chống phát thải và trừ cỏ tốt nhất, giúp tăng năng suất và đặc biệt giảm được 30% đến 40% lượng khí N2O
TS. Nguyễn Đăng Nghĩa cũng nhấn mạnh, các đề xuất này cần được Quốc hội và chính quyền các địa phương nhận thức để triển khai thực hiện. Nếu phát triển được các giải pháp này sẽ đạt được thành công lớn, đặc biệt khi áp dụng tại các hợp tác xã ở đồng bằng sông Cửu Long. Do đó, cần sự tác động mạnh mẽ của các cơ quan truyền thông và chính quyền các tỉnh để nâng cao nhận thức và thực thi các giải pháp này.

Từ góc độ của mình, TS. Đồng Ngọc Ba, Ủy viên là đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách tại Ủy ban Pháp luật và Tư pháp của Quốc hội cho biết, Đảng, Nhà nước rất quan tâm đến vấn đề bảo vệ môi trường, hướng tới mục tiêu Net Zero. Trong giai đoạn hiện nay, các cơ quan đơn vị xây dựng và ban hành luật đang rà soát mọi lĩnh vực để xây dựng định hướng lập pháp của nhiệm kỳ Khoá XVI của Quốc hội, nhiệm kỳ 2026 – 2031, trong đó có lĩnh vực môi trường.
“Nhìn một cách có hệ thống, chúng ta đang rất tích cực lồng ghép yếu tố xanh và bền vững vào các lĩnh vực, chuyển dịch theo hướng phát triển từ chiều rộng sang mô hình theo chiều sâu và xanh hoá. Trong đó, tăng cường trách nhiệm của chủ thể liên quan trong vấn đề chống biến đổi khí hậu”, đại biểu Đồng Ngọc Ba nhận định.
Có thể thấy, quyết tâm của cả hệ thống chính trị trên tinh thần tháo gỡ và xử lý kịp thời các điểm nghẽn, vướng mắc, vì vậy cần đánh giá kỹ để luật hoá và đưa vào thực hiện hiệu quả trong thực tiễn.

Góp ý về những giải pháp trong thời gian tới, theo Phó Chủ nhiệm Tạ Văn Hạ, một trong những đột phá lớn đã bắt đầu được triển khai đó là chuyển đổi sử dụng năng lượng tái tạo, khuyến khích, thu hút đầu tư ở lĩnh vực năng lượng tái tạo, ưu tiên phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn.
Đột phá thứ hai, về mặt công nghệ và đổi mới sáng tạo, bên cạnh hành lang chính sách thể hiện sự quyết liệt trong chuyển đổi số, bản thân các doanh nghiệp cũng cần tích cực, tự vận động, tự thích ứng để có những chuyển biến.
Đại biểu Tạ Văn Hạ cho rằng, các giải pháp đột phá cần được song hành cùng nhau, trong đó, không thể thiếu giải pháp đột phá về tài chính, chính sách thu hút nguồn lực trong nước và quốc tế đầu tư, hợp tác vào lĩnh vực này. Cân đối giữa nguồn lực Nhà nước và nguồn lực xã hội để thúc đẩy tiến độ, thực hiện thành công chương trình Net Zero.
“Trong quá trình giám sát, tôi cũng thấy chúng ta đang tiến tới hoàn thiện thị trường nội địa carbon, đây là việc phải làm sớm, làm mạnh và thậm chí phải liên kết được với quốc tế. Hiện nay, Bộ Tài chính theo như báo cáo đang tích cực triển khai để vận hành được thị trường cacbon này”, Đại biểu Tạ Văn Hạ nhận định
Giải pháp cuối cùng được Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội đề xuất là đột phá về thể chế, chính sách, chìa khoá quan trọng để doanh nghiệp tự tin triển khai. Bởi theo đại biểu, phải có hệ thống pháp luật hoàn thiện và có những cơ chế chính sách ưu đãi mới đủ hấp dẫn doanh nghiệp.
“Thực tế bản thân doanh nghiệp cũng đã chủ động nghiên cứu xem hiện nay Nhà nước đã ban hành chính sách gì để hỗ trợ chưa. Có những nơi chúng tôi đến thấy rằng có rất nhiều chính sách mà doanh nghiệp chưa tiếp cận được. Đồng thời, Nhà nước cũng cần phải tạo ra cơ chế để doanh nghiệp có cơ hội, có điều kiện để khuyến khích, bổ trợ, thúc đẩy, tham gia tích cực vào công cuộc này.”

Nhấn mạnh về trách nhiệm cộng đồng, ý thức cá nhân như một yếu tố then chốt để hướng tới mục tiêu Net Zero, theo đại biểu Quốc hội Đoàn TP. Hà Nội Trương Xuân Cừ, trong tất cả các hoạt động nông - lâm - ngư nghiệp phải gắn với hữu cơ, phát triển kinh tế xanh; dự án mới muốn được đầu tư đều phải đảm bảo thân thiện với môi trường, hướng đến mục tiêu xanh và bền vững.
Để làm được điều này đòi hỏi sự thay đổi trong tư duy sản xuất của từng hộ nông dân, bởi mỗi thay đổi trong nhận thức và lối sống của cá nhân đều góp phần định hình tương lai xanh cho đất nước.
“Tất cả hệ thống chính trị phải vào cuộc, từ chính quyền - doanh nghiệp – người dân bắt tay nhau cùng thực hiện sẽ tạo nên thế kiềng ba chân vững chắc đưa Việt Nam tiến thẳng tới mục tiêu kỳ vọng”, đại biểu Trương Xuân Cừ tin tưởng.

