Từ AIPO đến AIPA: Một chặng đường lịch sử

Quốc Phạm 11/09/2015 08:09

10 năm sau khi Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) ra đời năm 1967, nhu cầu củng cố khối đoàn kết vì lợi ích chung trong khu vực ngày càng mạnh mẽ, thôi thúc nghị viện các nước ASEAN tập hợp lại cùng tìm kiếm phương thức hợp tác mới. Tổ chức liên Nghị viện ASEAN (AIPO) đã ra đời để hiện thực hóa mục tiêu này.

 

Ý tưởng hợp tác liên nghị viện

Ý tưởng thiết lập cơ chế hợp tác liên nghị viện tương ứng với Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á được hình thành qua chuyến thăm Indonesia, Singapore của Đoàn nghị sĩ Malaysia năm 1973. Năm 1974, Hạ viện Indonesia đã cử đại diện đến Thái Lan, Philippines, Malaysia, Singapore để vận động việc thành lập Diễn đàn liên nghị viện Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á.

Tháng 1.1975, Hội nghị Nghị viện ASEAN (APM) lần thứ nhất họp ở Jakarta để thảo luận về việc thành lập Diễn đàn hợp tác nghị viện khu vực Đông Nam Á. Tháng 8.1975, APM lần thứ hai họp tại Kuala Lumpur đã quyết định đổi tên Diễn đàn liên nghị viện ASEAN thành Tổ chức liên Nghị viện ASEAN (ASEAN Inter - Parliamentary Organization - AIPO). Tại Hội nghị lần thứ ba, họp tại Malina, Philippines tháng 9.1977, Quy chế AIPO đã được Trưởng đoàn Nghị viện 5 nước thành viên nhất trí thông qua, đánh dấu sự ra đời của AIPO, với mục tiêu thúc đẩy hợp tác liên nghị viện, xây dựng khu vực Đông Nam Á hòa bình, ổn định và thịnh vượng theo các nguyên tắc và mục tiêu ghi trong Quy chế.

Từ 5 thành viên sáng lập là Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan (năm 1977), AIPO đã từng bước phát triển thành viên: Việt Nam (năm 1995), Lào (năm 1997), Campuchia (năm 1999), Brunei (năm 2009) và Myanmar (năm 2011).

Phiên họp toàn thể Đại hội đồng AIPO - 23. Hà Nội, ngày 9.9.2002
Phiên họp toàn thể Đại hội đồng AIPO - 23. Hà Nội, ngày 9.9.2002

Từ AIPO đến AIPA

Trong bối cảnh hội nhập và liên kết khu vực ngày càng tăng, từ Đại hội đồng AIPO - 22 ở Thái Lan (năm 2001), ý tưởng cải tổ AIPO nhằm tiến tới xây dựng một nghị viện chung cho khu vực, có chức năng lập pháp và quyền lực lớn hơn đối với các quyết sách của ASEAN đã hình thành. Sau đó, Đại hội đồng AIPO-25 ở Campuchia (năm 2004) đã nhất trí thành lập Ủy ban đặc biệt gồm 18 thành viên để nghiên cứu về lộ trình chuyển đổi AIPO thành một thể chế hiệu quả hơn và hội nhập chặt chẽ hơn.

Sau một thời gian nghiên cứu và thảo luận kéo dài, nghị viện các quốc gia thành viên nhất trí cho rằng, việc cải tổ AIPO cần có lộ trình phù hợp với các bước đi của ASEAN, không thể nóng vội trong việc sớm thiết lập một cơ quan lập pháp chung cho khu vực. Vì khác với Liên minh châu Âu và Nghị viện châu Âu, ASEAN là một cộng đồng các quốc gia có sự khác biệt lớn về trình độ phát triển, chế độ chính trị; đa dạng và khác biệt về văn hóa, ngôn ngữ. Sự liên kết nội khối của ASEAN tuy đã có những chuyển biến tích cực và gắn kết hơn, nhưng còn ở mức độ thấp hơn so với sự liên kết nội khối của Liên minh châu Âu và có sự khác biệt trong chính sách đối ngoại của từng quốc gia ASEAN. Vì vậy, Đại hội đồng AIPO - 26 tại Lào (2005) đã giao cho Hạ viện Indonesia tổ chức Hội nghị đặc biệt về chuyển đổi AIPO thành một tổ chức hiệu quả và liên kết chặt chẽ hơn. Năm 2006, Hội nghị đặc biệt về chuyển đổi AIPO đã họp 2 lần và đưa ra kiến nghị sửa đổi Quy chế AIPO nhằm kiện toàn hoạt động của Chủ tịch, Tổng thư ký và Ban chấp hành AIPO.

Đại hội đồng AIPO - 27 tại Philippines (2006) đã rà soát và sửa đổi Quy chế với một số điểm mới quan trọng: Đổi tên Tổ chức Liên nghị viện ASEAN (AIPO) thành Hội đồng Liên Nghị viện ASEAN (ASEAN Inter-Parliamentary Assembly - AIPA); Bổ sung nhiệm vụ và quyền hạn của Đại hội đồng, theo đó, Đại hội đồng có thể thông qua các sáng kiến về chính sách lập pháp phù hợp với lợi ích và mối quan tâm chung của cộng đồng để các nghị viện thành viên thực hiện; Đề cao vai trò và quyền hạn của Ban Chấp hành. Hội nghị Ban Chấp hành phải được tiến hành trước kỳ họp Đại hội đồng 3 tháng để chuẩn bị nội dung và chương trình nghị sự; Bổ nhiệm Tổng thư ký chuyên trách với nhiệm kỳ 3 năm theo nguyên tắc luân phiên theo thứ tự bảng chữ cái tiếng Anh tên của các nước thành viên; Bổ sung một số quy định mang tính ràng buộc hơn đối với các nghị viện thành viên.

Tại Hội nghị bất thường Ban chấp hành họp tại Kuala Lumpur (2007), Quy chế mới của AIPA đã được nghị viện các nước: Campuchia, Indonesia, Lào, Malaysia, Singapore, Thái Lan, Việt Nam và quan sát viên đặc biệt Brunei ký thông qua. Philippines và quan sát viên đặc biệt Myanmar ký Quy chế sau đó một thời gian.

Việc thông qua Quy chế AIPA đánh dấu sự chuyển đổi từ Tổ chức Liên nghị viện ASEAN (AIPO) thành Hội đồng Liên nghị viện ASEAN (AIPA). Đây không đơn thuần là sự thay đổi tên gọi hay từ ngữ, mà còn là sự nâng cấp quan trọng về mặt tổ chức, thể hiện tiến trình hội nhập ngày càng sâu sắc giữa các nước ASEAN, thể hiện nguyện vọng của các dân tộc ASEAN hướng tới mô hình hợp tác liên nghị viện hoạt động thiết thực, hiệu quả và hợp tác chặt chẽ hơn, phù hợp với mục tiêu thành lập Cộng đồng ASEAN vào cuối năm nay.

 Cơ cấu tổ chức

Đại hội đồng là cơ quan cao nhất của AIPA, mỗi năm họp ít nhất một lần. Đại hội đồng bao gồm các đoàn đại biểu của nghị viện thành viên, mỗi đoàn không quá 15 đại biểu do Chủ tịch hoặc người đại diện của Chủ tịch dẫn đầu, trong đó ít nhất 3 thành viên là nữ nghị sĩ. Đại hội đồng có thể mời các quan sát viên đặc biệt, các quan sát viên và khách mời tham dự các kỳ họp.
 
Đại hội đồng AIPA thường niên do nghị viện các nước đăng cai, được lựa chọn theo cơ chế luân phiên theo vần chữ cái tiếng Anh. Đến nay đã có 36 kỳ họp Đại hội đồng. Chương trình nghị sự tại Đại hội đồng do Ban chấp hành xem xét và quyết định theo nguyên tắc đồng thuận. Đại hội đồng có thể thông qua các sáng kiến về chính sách, đề xuất sáng kiến lập pháp về các vấn đề cùng quan tâm dưới dạng nghị quyết. Các quyết định của Đại hội đồng về bất cứ vấn đề nào cũng phải được sự đồng thuận của tất cả các đoàn đại biểu dự kỳ họp Đại hội đồng. Những vấn đề không đạt được đồng thuận không được đưa vào chương trình nghị sự của Đại hội đồng.

Thông thường, tại mỗi kỳ họp Đại hội đồng có các phiên họp toàn thể và các cuộc họp của các ủy ban chuyên đề. Nước chủ nhà đăng cai Đại hội đồng chuẩn bị các dự thảo nghị quyết thông qua các ủy ban để trình Đại hội đồng tại phiên họp toàn thể, chỉ khi nhận được sự nhất trí hoàn toàn của các đoàn đại biểu thì nghị quyết đó mới trở thành nghị quyết của Đại hội đồng.

Chủ tịch AIPA: Chủ tịch nghị viện thành viên AIPA đăng cai kỳ họp Đại hội đồng sẽ là Chủ tịch AIPA, đồng thời là Chủ tịch Đại hội đồng. Các Trưởng đoàn Nghị viện thành viên khác là các Phó chủ tịch Đại hội đồng. Nhiệm kỳ của Chủ tịch AIPA thường là một năm, bắt đầu từ sau khi bế mạc kỳ họp Đại hội đồng lần này cho đến khi kết thúc kỳ họp Đại hội đồng kế tiếp. Chủ tịch AIPA đồng thời là Chủ tịch Ban chấp hành.

Ban chấp hành là cơ quan tham mưu của AIPA. Chủ tịch AIPA triệu tập cuộc họp Ban chấp hành để thảo luận, bàn nội dung chương trình nghị sự của Đại hội đồng. Cuộc họp Ban chấp hành thường diễn ra trước khi các hoạt động chính thức của kỳ họp Đại hội đồng. Theo Quy chế mới của AIPA, cuộc họp Ban chấp hành có thể được tổ chức chậm nhất là 3 tháng trước khi khai mạc kỳ họp Đại hội đồng. Nhiệm kỳ của Ban chấp hành theo nhiệm kỳ của Chủ tịch AIPA.

Các Ủy ban: Đại hội đồng có thể thành lập các Ủy ban thường trực, ủy ban nghiên cứu, Ủy ban đặc biệt hoặc tiểu ban của một Ủy ban Thường trực về những vấn đề cụ thể nhằm thực hiện các nghị quyết, phù hợp với tôn chỉ và mục đích của AIPA.

Ban Thư ký AIPA: là cơ quan hành chính của AIPA, đặt ở thành phố nơi đặt Ban Thư ký ASEAN.

Tổng thư ký: Tổng thư ký AIPA do Chủ tịch AIPA bổ nhiệm và được sự chấp thuận của Đại hội đồng với nhiệm kỳ 3 năm, trên cơ sở luân phiên trong số các nghị viện thành viên theo thứ tự vần chữ cái tiếng Anh. Tổng thư ký là Trưởng ban Thư ký AIPA và Giám đốc điều hành của AIPA.

Hội nghị Nữ nghị sĩ: Nhằm thúc đẩy bình đẳng giới và tạo điều kiện để các nữ nghị sĩ tham gia các hoạt động của AIPA, từ năm 1998 đã hình thành cơ chế Hội nghị Nữ nghị sĩ trong khuôn khổ Đại hội đồng AIPO/AIPA.

Nhóm nghị sĩ AIPA: gồm 3 đại diện của mỗi nghị viện thành viên. Cơ chế này nhằm tăng cường liên kết, trao đổi thông tin để triển khai các sáng kiến về lập pháp chung nhằm hài hòa hóa pháp luật giữa các nước thành viên AIPA, hướng tới Cộng đồng ASEAN.

Ban Thư ký Quốc gia: Mỗi nghị viện thành viên AIPA thành lập một Ban Thư ký Quốc gia có nhiệm vụ làm đầu mối duy trì liên lạc thường xuyên với Ban Thư ký AIPA.

Tài chính của AIPA: Mỗi nghị viện thành viên AIPA có nghĩa vụ đóng góp tài chính cho AIPA theo mức quy định của Đại hội đồng. AIPA có quyền tiếp nhận những khoản tiền hiến tặng để đưa vào quỹ của AIPA.

Quan hệ đối tác với ASEAN: AIPA thiết lập mối liên lạc và tham vấn thường xuyên với ASEAN để bảo đảm sự gắn kết và hợp tác giữa các chính phủ ASEAN, nghị viện các quốc gia ASEAN và các bên liên quan trong ASEAN, cũng như tăng cường mối quan hệ với các cơ quan ASEAN.

PQB

    Nổi bật
        Mới nhất
        Từ AIPO đến AIPA: Một chặng đường lịch sử
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO