Trường lớp, trường đời

Vinh Huy 05/06/2014 08:47

Nếu môi trường trường lớp đòi hỏi sự học hỏi, nghiên cứu nghiêm ngặt, thì môi trường cuộc đời đòi hỏi không chỉ nỗ lực khám phá, mà còn cả sự dấn thân, xác tín cá nhân nữa.

1.

Ta thường nghe nói một người nào đó học hành bài bản, đã qua trường lớp, nghĩa là họ đã được học trong môi trường học tập chuyên nghiệp, ở đó, thầy ra thầy, trò ra trò, có bảng đen phấn trắng, hoặc các thiết bị dụng cụ dạy và học hiện đại khác. Kiến thức thu nhận được trong môi trường đó thường được coi là những giá trị phổ biến được đúc kết từ nhiều năm, được truyền trao từ thế hệ này đến thế hệ khác. Đó là những kiến thức trong khuôn khổ, và người học ít nhiều, biết trước mình sẽ trở thành một người “khác trước” như thế nào “sau khi” lĩnh hội các gói kiến thức đó. Rời khỏi trường lớp, bạn sẽ được trang bị những “công cụ” giúp ích nhất định cho việc kiếm sống, tạo nên sự nghiệp, mưu cầu hạnh phúc. Tóm lại, học hành và tốt nghiệp qua trường lớp, ta có rất nhiều cơ hội được làm một thành viên theo những chuẩn chung của xã hội, quốc gia, loài người.

Nhưng học hành ở trường lớp cũng có những nguy cơ: một là, có thể những kiến thức vô bổ, lạc hậu theo năm tháng cứ chồng chất lên tâm trí ta mà vô thức “không biết cách quên đi” khiến ta trở thành nô lệ của sách vở; hai là, nếu học không đúng cách ta dễ trở nên học phiệt, đàn áp những người có tư tưởng học thuật khác mình; ba là, quá tin tưởng vào sách vở, coi sách vở là cứu cánh duy nhất. Người Đông phương thường nói: “Tận tín thư bất như vô thư” nghĩa là tin hoàn toàn vào những điều sách nói thì thà không đọc sách còn hơn. Câu nói cảnh giác chúng ta không nên tin tuyệt đối vào sách vở mà phải suy xét, phải giữ khoảng cách với cái được gọi là chân lý lý thuyết.

Tương tự, ở phương Tây, Thánh Thomas Aquinas từng nói một câu trứ danh: “hominem unius libri timeo” nghĩa là “tôi sợ những người chỉ đọc một cuốn sách”. Hiểu rộng ra, ta cần cảnh giác với những người cuồng tín chỉ với một lý thuyết mà không cởi mở trước mọi khả năng thách thức cái lý thuyết mà mình đang theo đuổi lâu nay. Lịch sử từng chứng kiến nhiều cuộc lật đổ long trời lở đất những lý thuyết sai lầm vốn đã định hình lâu năm, có khi hàng thế kỷ. Chẳng hạn thuyết địa tâm, một lý thuyết cho rằng trái đất là trung tâm của vũ trụ và mặt trời cùng các thiên thể khác quay quanh nó. Mô hình địa tâm sai lầm này đã thống trị thời tiền hiện đại; chỉ đến cuối thế kỷ XVI nó mới dần bị thay thế bởi hệ nhật tâm của Copernicus, Galileo và Kepler. Học thuyết gây sốc của Freud về các giai đoạn phát triển của trẻ em xét như là những giai đoạn phát triển tính dục cũng dần dần bị ánh sáng khoa học hiện đại phát hiện những chỗ cường điệu và thiếu cơ sở. Trong triết học, một triết thuyết mới ra đời thường là kết quả của sự kế thừa thành tựu và vượt qua những hạn chế, thậm chí sai lầm của triết thuyết trước đó. Vậy phải chăng ta sẽ dành cả cuộc đời này mài đũng quần trong ghế nhà trường để tranh cãi với chính ta và với mọi người, nhất là với tiền nhân sao?

Người viết bài này từng gặp một cô gái làm báo tự do (freelance). Cô ta đầy tự tin, một mình đi khắp nơi, làm việc cùng lúc cho mấy tòa soạn báo. Khi được hỏi “Sao bạn không tiếp tục học lên cao học?”, cô trả lời không chút lưỡng lự: “Theo tôi những người sau khi tốt nghiệp cử nhân và tiếp tục học để lấy bằng thạc sỹ, tiến sỹ chẳng qua vì họ không biết làm gì. Họ cứ học vậy đó. Họ không dám ra đời”. Câu nói hơi quá khích, nhưng cũng có phần nào đúng. Quả thật, cũng có khi sự học hành bài bản trong trường lớp làm thui chột cá tính sáng tạo của những ngành nghề đặc biệt đòi hỏi phẩm chất này.

Có không ít nhà văn, nhà thơ Việt Nam đang viết rất hay, đầy cảm hứng với bút lực dồi dào nhưng sau khi vào trường đại học viết văn Nguyễn Du thì dần dần không viết được gì nữa, hoặc không còn hay so với trước đây. Có lẽ họ sợ. Và tâm trí họ bị đè nặng bởi hệ thống kiến thức hàn lâm, viết cái gì ra cũng sợ không hay, không đúng. Kiến thức khuôn định đã giết chết bản năng sáng tạo tự do. Nhưng nói như thế không có nghĩa là những ngành nghề đòi hỏi cá tính sáng tạo đều không cần đến trường lớp. Kiến thức nhà trường chí ít cũng là bàn đạp cho sự tiến bộ của mỗi người trong ngành nghề chuyên môn. Và xét cho cùng, bản thân bạn sẽ quyết định thành bại trong việc tiếp nhận học thuật và cân bằng giữa học thuật và cá tính hứng khởi. Có một tấm gương vĩ đại như thế: Alexandre Yersin.

Nhà bác học người Pháp Alexandre Yersin (1863-1943) là học trò đầy hứa hẹn của Louis Pasteur, nhưng ông lại mong muốn những hướng đi mới, để khám phá những điều chưa biết, và thế là, thay vì theo đuổi sự nghiệp ở viện Pasteur Paris, ông lại quyết định lao vào khám phá trường đời xa lạ và đặt chân tới những con đường núi hiểm trở của một đất nước trồng lúa - đó là Việt Nam.

Đoạn văn trên đây trong cuốn sách Yersin: Dịch hạch và thổ tả của Patrick Deville (Nhà xuất bản Trẻ, 2012) cung cấp cho ta một ý niệm về sự khác nhau giữa cái học trường lớp và cái học trong trường đời. Một bên đầy hứa hẹn vinh quang, một bên là những điều chưa biết. Alexandre Yersin đã chọn cái sau, chọn trở thành một nhà thám hiểm. Quyết định của Yersin rời bỏ môi trường học thuật tại Paris để đến một xứ thuộc địa khiến bạn hữu và đồng sự kinh ngạc. Nhưng, nhờ tinh thần phiêu lưu đó của ông với những cuộc thám hiểm đầy bất trắc mà chúng ta có cao nguyên Lâm Viên và một Đà Lạt như ngày nay. Nếu ông ở lại Paris, sẽ chẳng bao giờ ông được trường đời tặng cho một trải nghiệm vô tiền khoáng hậu này: “Từ trong rừng thông bước ra tôi sững sờ khi đối diện một bình nguyên hoang vu giống như mặt biển tràn đầy những làn sóng màu xanh lá cây. Sự hùng vĩ của rặng Langbiang hòa lẫn vào đường chân trời tây bắc tạo nên bối cảnh tráng lệ, gia tăng vẻ đẹp của vùng đất này” (Wikipedia).

 2.

Không có cái gì hứa hẹn dâng hiến sẵn cho ta trong trường đời, không có khu vườn đầy trái ngọt nào trong trường đời để ta đến thoải mái hái về. Ngược lại, nó chứa toàn những điều chưa biết, hoặc những điều còn đang tranh cãi, thậm chí những điều thách thức nguy hiểm, đặc biệt trong lĩnh vực đạo đức. Về mặt này, trường lớp, sách vở thường chỉ dạy cho chúng ta những nguyên lý tối cao, những chân lý tổng quát. Và nhiều nhất là những mệnh lệnh vô điều kiện: hãy làm việc thiện; tránh xa cái ác. Hãy chính trực. Hãy can đảm. Đừng nói dối. Hãy tránh xa tội lỗi.

Nhưng không phải có những “cái lý” vĩ đại đó trong hành trang vào đời là có thể yên tâm. Không phải cứ tuân theo các mệnh lệnh phổ quát đó là sẽ đi tới đích. Không. Ngay cả những lời giáo huấn tưởng là chắc như đá tảng của các triết gia cũng nhiều khi bị thực tế cuộc sống chỉ ra là sai lầm. Khi triết gia Socrates bảo rằng “Không ai làm điều ác một cách cố ý”, ông ngầm bảo chúng ta phải có hiểu biết về cái thiện/cái ác để hành xử đúng trong cuộc sống. Nhưng rồi thực tế đã phơi bày chân dung những nhà đạo đức giả, những kẻ rao giảng đạo đức một đằng và làm việc vô đạo một nẻo; tệ hại hơn nữa, đã quá nhiều lần ta nhìn thấy các bậc trí thức phạm tội ác. Hay như triết gia Aristotle đã nêu ra “quy tắc vàng trung dung” trong khi thể hiện các hành vi luân lý, thì nhiều khi sự trung dung đã tỏ ra lạnh lẽo quá đáng đến mức… cực đoan, không còn giá trị nữa. Bạn sẽ đối mặt với những tình huống lưỡng nan mà chỉ có kinh nghiệm cuộc đời cộng với trực cảm được mài sắc theo tháng năm sống mới giúp bạn phân biệt điều nên làm, và điều có thể tránh được.

Nếu chân lý trường lớp, như đã bàn ở trên, mang tính tương đối, thì chân lý trong trường đời càng không đóng gói sẵn.

Nếu môi trường trường lớp đòi hỏi sự học hỏi, nghiên cứu nghiêm ngặt, thì môi trường cuộc đời đòi hỏi không chỉ nỗ lực khám phá, mà còn cả sự dấn thân, xác tín cá nhân nữa.

Nếu trường lớp là giấc mơ bay bổng, thì trường đời là thực tại thường khi nghiệt ngã.

    Nổi bật
        Mới nhất
        Trường lớp, trường đời
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO