Triết luận đẹp huyền ảo
Trần Hoài Anh
Dân Nam bộ chính hiệu, sinh ra và lớn lên tại Sài Gòn nên Nhật Chiêu là một nhà văn Nam bộ “thuần chủng”. Nhưng anh là nhà văn Nam bộ khá lạ lùng. Bởi lẽ, văn chương của Nhật Chiêu không hề mang chút hơi hướm nào của văn chương Nam bộ từ trong cốt cách, nội dung và hình thức biểu đạt. Vì vậy, có thế nói, Nhật Chiêu là “đứa con tha hương” của văn chương Nam bộ.
![]() |
Không như những nhà văn Nam bộ khác, khi viết văn thường ít dụng công chăm chút cho tính mỹ cảm của văn chương mà viết văn cốt để trình bày tư tưởng, tình cảm chân mộc vốn là bản sắc văn hóa của cư dân Nam bộ, Nhật Chiêu là người đi đến tận cùng cái đẹp. Cái đẹp trong văn chương và cái đẹp trong cuộc đời. Những trang văn của anh bao giờ cũng là hiện thân của cái đẹp. Một tình yêu đẹp, một phong cảnh đẹp, một nỗi cô độc đẹp, một niềm hạnh phúc đẹp… Vì vậy, có thể nói anh là con người của chủ nghĩa duy mỹ và duy cảm. Nhưng không phải là một thứ duy mỹ và duy cảm cực đoan và xa rời đời sống. Ngược lại, đó là một chủ nghĩa duy cảm và duy mỹ gắn với cuộc sống nhân sinh, là cái đích mà con người hướng đến để tự thanh lọc mình trước những cái xấu xa, thấp hèn đang đầy rẫy trong cuộc sống. Thế nên, khi đọc văn Nhật Chiêu, nhà văn Hồ Anh Thái cho rằng: “Đọc truyện đời mà dần dần trôi vào cõi huyền ảo. Phảng phất men say. Độc giả nào chợt thấy chơi vơi chuếnh choáng có lẽ cũng không lấy gì làm lạ... Nếu bạn thấy thế giới ấy chập chờn viển vông, xin lưu ý rằng có thể đây là một điều hàm ngụ. Nếu chỉ đơn giản là bạn thấy nó đẹp thì tôi tin đó là cái đích mà tác giả Nhật Chiêu hướng đến”.(1)
Lời chia sẻ của nhà văn Hồ Anh Thái về văn chương Nhật Chiêu quả không đại ngôn tí nào. Ta hãy cùng khám phá những diễn ngôn anh biểu đạt để thấy vẻ đẹp ấy hiện ra lấp lánh ra sao trong văn chương của Nhật Chiêu. Đây là vẻ đẹp của một người đàn bà được anh cảm nhận bằng tất cả sự thăng hoa trong tình yêu mà không phải khi yêu, ai cũng có sự cảm nhận tinh tế ấy. Đó là sự cảm nhận vừa trần tục lại vừa thánh thiện, thanh khiết. Cái thanh khiết chỉ có ở những tình yêu đẹp, tâm hồn đẹp và của một sự tận hiến cho cái đẹp. Anh viết: “Nệm vẫn còn vết trũng và hơi ấm do thân thể nàng để lại. Gối vẫn còn phảng phất mùi hương nguyệt quế của tóc nàng. Ta nhẹ ướm mình vào vết trũng đó, hơi ấm đó, mùi hương đó, ướm mình vào sự vắng mặt nồng nàn đó. Ta mơn trớn hình dáng của sự vắng mặt trong tiếc nuối. / Giá nàng còn nằm lại! Ta thích ân ái lần nữa trước khi sương tan, trước khi nắng lên và trong tiếng hót của chim rừng”.(2)
Viết về tình yêu và sự ân ái nồng nàn bằng những lời văn mượt mà, óng ả như tơ trời, mênh mông như sương khói, lãng đãng như hoàng hôn và đam mê, quyến rũ khi đêm về... nếu không có thiên năng và một tâm hồn đa cảm luôn hướng về cái đẹp, thì không thể nào viết được.
Yếu tính của văn chương bao giờ cũng hướng đến cái đẹp. Đọc văn Nhật Chiêu ta không chỉ thấy hiện hữu cái đẹp trong tình yêu của con người mà còn thấy hiện lên vẻ đẹp của thiên nhiên, một thiên nhiên thấm đượm triết lý phương Đông mà anh đã thấu cảm bằng tất cả sự uyên náo và tinh tế. Vì vậy, thiên nhiên trong văn của Nhật Chiêu bao giờ cũng mang nặng yếu tố tâm linh, luôn gắn với cảm thức nhân sinh mà ta ít gặp ở những trang văn của các nhà văn Nam bộ khác. Đó là một thiên nhiên đầy mặc khải, huyễn hoặc và thanh sạch của một “Cao nguyên duỗi mình tắm mưa (...) Mưa xuân rơi trên cây dương liễu, trên cây phượng tím bên ngoài cửa sổ. Mưa xuân rơi rơi trên giấc ngủ của nàng”.(3) Còn đây là một cảnh đẹp của thiên nhiên gắn với những hoài niệm của con người mà khi đọc lên lòng ta không khỏi thảng thốt “Ta đang đi. Nhưng có phải ta bước đi đâu? Đó là bước chân của nắng tắt. Đang tự mình hóa đêm. Đó là bước chân của cỏ. Nhẹ đi trong u huyền”.(4) Và đó cũng là cái đẹp của nỗi cô đơn vốn là căn tính của hữu thể mà con người không thể nào vượt thoát khỏi sự cô đơn ấy cho dẫu đó là sự vượt thoát đầy “huyễn hoặc” của những kẻ tự cho mình có trái tim sắt đá. Ta hãy nghe anh chia sẻ: “Giá như một lần, tôi có thể đi vào giấc ngủ ấy, cái thế giới trống rỗng không có gì ấy. Trong cái nhà tù hư vô ấy, chỉ có bóng tối”.(5) Đây là nỗi cô đơn của một tâm thức hiện sinh mà nếu không có sự trải nghiệm nhà văn khó có thể viết được những câu văn tự vấn đầy khắc khoải như vậy.
Văn chương Nhật Chiêu là một thứ văn chương hướng thiện, có khả năng làm thanh sạch tâm hồn. Văn chương ấy không phải ai muốn viết cũng được, nếu người cầm bút không có thiên lương và không có tình yêu đối với cái đẹp một cách thanh sạch. Song văn chương Nhật Chiêu không chỉ ẩn chứa cái đẹp mà còn ẩn chứa trong đó những giá trị mang tính triết luận; một thứ triết luận vừa trí tuệ lại vừa đẹp, vừa hiện thực lại vừa huyền ảo. Đó là một thứ văn chương ẩn chứa nhiều giá trị của sự hôn phối diệu kỳ giữa triết học Đông, Tây, điều mà ta hiếm thấy trong văn chương của các nhà văn Nam bộ như Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, Lý Văn Sâm, Đoàn Giỏi, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo... thậm chí cả những nhà văn trẻ sau nầy như Nguyễn Ngọc Tư…
Chất triết lý ấy ẩn chứa rất nhiều trong ý nghĩa của tập truyện ngắn Mưa mặt nạ và tập truyện tuyệt ngắn Lời tiên tri của giọt sương, thể loại sở trường của Nhật Chiêu. Đó là các truyện Tiểu thuyết trinh thám, Bức tranh, Thế giới ảo, Gương, Chiếc nhẫn, Hang tối, Thú lạ, Quần áo không vua... Song tính triết luận trong văn chương của Nhật Chiêu không chỉ thể hiện trong những câu chuyện mang ý vị triết học mà còn được thể hiện ở những diễn ngôn trong tác phẩm. Đặc điểm này làm nên một thứ hương vị và nhan sắc riêng của văn chương Nhật Chiêu, thể hiện rõ phong cách và cá tính sáng tạo của anh.
Đọc một số tác phẩm của anh như Mưa mặt nạ, Lời tiên tri của giọt sương, Viết tên trên nước, Đi dưới mưa hồng... luôn bắt gặp những diễn ngôn ẩn chứa tính chất triết lý sâu sắc làm ta thích thú đến bất ngờ. Đó cũng là cái duyên riêng có của văn chương Nhật Chiêu so với các nhà văn Nam bộ khác. Và đây cũng là một yếu tố cho thấy anh là “đứa con tha hương” của văn chương Nam bộ. Do ảnh hưởng của tính chất địa văn hóa, người Nam bộ vốn sống thoải mái, nhìn thoải mái, nghĩ thoải mái, nói thoải mái, chứ ít khi chau mày triết lý cao siêu như người Bắc bộ. Vậy mà, đọc văn Nhật Chiêu, mặc dầu, anh vẫn nói thoải mái, nghĩ thoải mái nhưng đó là sự thoải mái của một trái tim rất nóng và cái đầu rất lạnh, nên văn luôn thể hiện một độ chín tư duy và chiều sâu tâm hồn. Bạn hãy đọc những câu trích dẫn sau đây để thấy rõ hơn điều đó.
Trong truyện Ao, có những câu đầy tính triết luận nói về cái đẹp của lao động sáng tạo nghệ thuật: “Khi nhào trộn đất thó làm bình, thì anh cũng nhào trộn cả hư không trong lòng bình, cả bài ca anh hát bằng giọng điệu của người cô độc”.(6) Hay trong truyện Viết tên trên nước, có những câu mà tính triết luận gợi ra cho ta nhiều ngẫm ngợi về kiếp nhân sinh: “Tôi theo đuổi kẻ theo đuổi tôi. Nghe nói chính cái bóng của tôi đang bị theo đuổi. Đó chính là cái dấu tích duy nhất của tôi”.(7) Còn đây là những câu không chỉ có tính triết luận mà còn là những hình tượng văn học mang tính triết lý về những điều làm ta đớn đau trước những cái thật /giả, giả /thật đang hiện hữu trên sân khấu cuộc đời như một thứ giá trị ảo được che đậy bởi những chiếc mặt nạ có khă năng đánh lừa con người mà Nhật Chiêu miêu tả: “Dân làng tranh nhau nhặt mặt nạ và biết đâu, mặt nạ cũng tranh nhau nhặt con người, dưới cơn mưa ảo, dân làng tranh nhau nhặt cái ảo như thể đang nhặt vàng, nhặt bạc, như thể đang nhặt lên những giấc mơ, những khát vọng, những mảnh vụn của bóng tối trong đáy sâu tâm thức, hoặc đang nhặt những cơn điên, những phiêu lưu vô định. Có vô số mặt nạ... có cả mặt nạ của mặt nạ, mặt nạ của hư không, mặt nạ của chân lý, mặt nạ của giải thoát…”(8) Có thể nói tính chất triết luận trong văn chương Nhật Chiêu đã trở thành một cảm hứng trong cá tính sáng tạo của Anh. Anh quan niệm: “Bản chất của văn chương cũng giống như mộng tưởng vậy, đó là thế giới của “Cái có thể”, chứ không phải là thế giới của cái đúng tuyệt đối hay cái sai tuyệt đối. Đọc văn chương là được khám phá cái có thể ấy”.(9) Đây cũng là một quan niệm văn chương nhuốm màu triết học. Đó là một loại văn chương mang chở tư tưởng nhân văn chứ không phải là thứ văn chương tả tình, tả cảnh đơn thuần, dễ dãi trên các trang sách đang bày bán tràn lan ở các “chợ văn chương”.
Một điều cần nói đến, văn chương của Nhật Chiêu đã góp phần tạo nên một Nhật Chiêu Nam bộ trong đời sống mà lại không Nam bộ trong văn chương, đó là vì tác phẩm của anh gần như rất ít sử dụng phương ngữ Nam bộ. Bên cạnh đó tính hiện đại cũng là một yếu tố quan trọng làm nên sự khác biệt của văn chương Nhật Chiêu. Hầu hết các truyện của anh rất ngắn, kết cấu lạ theo kiểu kết cấu của truyện phương Tây chứ không theo lối kết cấu truyền thống. Mỗi truyện của anh luôn dồn nén về cảm xúc và tư tưởng như một bài thơ Haiku, một thể loại thơ mà anh rất am hiểu. Có thể nói văn chương của Nhật Chiêu là sự hóa thân giữa văn hóa phương Đông và phương Tây, giữa truyền thống và hiện đại. Và điều này càng xác tín vấn đề mà người viết đặt ra: Nhật Chiêu là “đứa con tha hương” của văn chương Nam bộ. Sự khác lạ của văn chương Nhật Chiêu đã góp phần tạo nên sự phong phú, đa dạng cho văn chương Nam bộ, làm cho nó trở nên đa thanh, đa giọng điệu, đa sắc màu, tạo thêm sự hấp dẫn nơi người đọc. Vì vậy dù là “đứa con tha hương” của văn chương Nam bộ nhưng Nhật Chiêu không phải là một nghịch tử mà là một quý tử. Văn chương Nhật Chiêu đã góp một tiếng nói riêng làm rạng rỡ cho nền văn chương Nam bộ. Đặc biệt, Văn chương Nhật Chiêu đã thức nhận cho người đọc một cách nhìn mới, cách nghĩ mới về văn chương Nam bộ. Đó không chỉ là thứ văn chương vui chơi, dễ dãi, ít dụng công trong nghệ thuật viết văn như người ta vốn nghĩ mà còn có một thứ văn chương buộc người ta phải ngẫm ngợi về những lẽ được mất của nỗi đau phận người. Bởi nói như Alfred de Muset: “Không gì làm cho con người trở nên lớn lao hơn là một nỗi đau thương lớn”. Đây phải chăng là thông điệp trong văn chương của anh và cũng là một đóng góp quan trọng của Nhật Chiêu vào nền văn chương Nam bộ nói riêng và văn chương dân tộc nói chung...
________________
1. Nhật Chiêu, Viết tên trên nước, Nxb Thanh niên 2010, lời giới thiệu của Hồ Anh Thái.
2, 3, 4, 5, 6, 7. Nhật Chiêu, Viết tên trên nước, Nxb Thanh niên 2010.
8. Nhật Chiêu, Mưa mặt nạ, Nxb Văn nghệ, 2008.
9. Nhật Chiêu, Đi dưới mưa hồng, Nxb Văn nghệ, 2007.