Quản trị Đại học: Cân bằng mối quan hệ giữa Hội đồng trường và Hiệu trưởng như thế nào?

Vì sao quản trị đại học lại là một vấn đề quan trọng? Vai trò, trách nhiệm của Hội đồng trường như thế nào? Làm thế nào để cân bằng Hội đồng trường, Hiệu trưởng và Đảng ủy trong trường đại học?

Để trả lời những câu hỏi trên, phóng viên Báo Đại biểu Nhân dân đã có cuộc trao đổi vớiGS.TSKH NGND Đặng Ứng Vận, nguyên là Ủy viên Hội đồng Quốc gia Giáo dục, nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Khoa học Văn phòng Chính phủ, nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Hoà Bình về vấn đề này.

Quản trị Đại học: Cân bằng mối quan hệ giữa Hội đồng trường và Hiệu trưởng như thế nào? -0
GS.TSKH NGND Đặng Ứng Vận

Bản chất của công tác Quản trị trong nhà trường 

Giáo sư định nghĩa về Quản trị đại học như thế nào?

- Trong quá trình nghiên cứu tôi đã chọn được hai định nghĩa. Một từ AUN-QA và một từ Vương quốc Anh. Trong sách trắng Oxford về  Quản trị đại học (QT ĐH) được xuất bản gần đây có một định nghĩa rất ngắn gọn: Thuật ngữ "QT" là các quá trình ra quyết định trong một tổ chức (White Paper về QT ĐH, Oxford 2006). 

Định nghĩa thứ hai không có phát biểu cụ thể nhưng rõ ràng đó là định nghĩa được rút ra từ Bộ Tiêu chuẩn đánh giá chất lượng cơ sở Giáo dục đại học (GD ĐH) của AUN-QA và hiện nay Việt Nam ta đang sử dụng. Theo đó, Hệ thống Quản trị (QT) (bao gồm hội đồng QT hoặc HĐT; các tổ chức đảng, đoàn thể; các hội đồng tư vấn khác) được thành lập theo quy định của pháp luật nhằm thiết lập định hướng chiến lược phù hợp với bối cảnh cụ thể của CSGD; đảm bảo giải trình và chịu trách nhiệm với xã hội, tính bền vững, sự minh bạch và giảm thiểu các rủi ro tiềm tàng trong quá trình phát triển.

Tôi ưa thích định nghĩa của người Anh, thứ nhất vì nó chỉ ra bản chất của công tác Quản trị trong nhà trường (NT) để không bị lầm lẫn với các nội dung quản lý học thuật (academic management) hoặc quản lý hành chính (administration) của hiệu trưởng.

Thứ hai là nó chỉ ra bản chất gắn liền với tự chủ của công việc Quản trị. Đơn giản là nếu mọi việc cứ thực hiện theo quy định đã có hoặc của cấp trên thì còn việc gì phải ra quyết định (policy decission making) ngoài việc tổ chức thực hiện những điều đã quy định để nâng cao chất lượng dạy, học và nghiên cứu và đánh giá cán bộ nhân viên (CB NV) và thi đua khen thưởng, vốn là công việc của hiệu trưởng và những nhân viên của ông/bà ấy và đúng là Hội đồng trường (HĐT) cũng rất khó chen chân vào các khâu này.

Tôi cũng ưa thích định nghĩa của AUN-QA. Nếu HĐT của trường ĐH Tôn Đức Thắng thực thi đầy đủ sứ mệnh “đảm bảo giải trình và chịu trách nhiệm với xã hội, tính bền vững, sự minh bạch và giảm thiểu các rủi ro tiềm tàng trong quá trình phát triển của CSGD” thì chắc không có chuyện hiệu trưởng chịu kỷ luật của Đảng. Định nghĩa này còn phù hợp với nhận xét cho rằng Hội đồng trường như là mô đệm của hiệu trưởng đối với xã hội.

Như vậy, cho thấy Quản trị Đại học đi liền với Chiến lược phát triển của nhà trường với 4 mảng công việc quan trọng:

- Xác định tầm nhìn sứ mạng, giá trị văn hóa

- Xây dựng chiến lược phát triển và chính sách

- Huy động nguồn lực bao gồm cả đầu tư

- Xử lý rủi ro

Nghiên cứu kỹ Luật Giáo dục đại học (GDĐH) và Nghị định về thực hiện tự chủ ở các trường ĐH cũng như Bộ Tiêu chí đánh giá chất lượng cho thấy về cơ bản, Nhà nước đã giao các quyền này cho nhà trường.

Những hạn chế và quy định hiện có lại nằm chủ yếu ở những công việc của hiệu trưởng mà ít liên quan đến công việc của HĐT. Vấn đề là năng lực thực hiện các quyền này của nhà trường đến đâu và cụ thể hơn là của các HĐT, cơ quan được lập ra để thực hiện công việc này.

Tạo dựng hệ sinh thái trong nhà trường

Giáo sư có thể phân tích cụ thể hơn về vai trò, nhiệm vụ của Hội đồng trường  như thế nào khi thực tế quyền lực lại nằm ở hiệu trưởng?

- Ý tưởng thành lập HĐT trong các trường ĐH công lập đã được thể chế hóa từ những năm 2003,sau đó khẳng định trong Luật Giáo dục năm 2005, Luật Giáo dục sửa đổi năm 2009, Điều lệ trường Đại học năm 2010,  Luật Giáo dục Đại học 2012 và gần đây nhất là Luật Sửa đổi một số điều của Luật Giáo dục Đại học 2018. Sau mỗi lần sửa đổi, chính sách vĩ mô về HĐT ngày càng rõ ràng.

Các hoạt động chính của Trường là giáo dục và nghiên cứu. Chúng ta mong các thầy cô và các nhà khoa học phấn đấu đạt được sự xuất sắc. Họ phát triển các ý tưởng mới trong giảng dạy và nghiên cứu, họ xin tài trợ với tư cách chủ trì và cùng chịu trách nhiệm với nhà trường. Họ thực hiện các dự án nghiên cứu của họ và họ sẽ được các nhà khoa học khác đánh giá dựa trên nền tảng chuyên môn trong các quá trình đánh giá đồng cấp trong và ngoài nước. HĐT không được mong đợi và cũng không có cách nào can thiệp vào các hoạt động này.

Không giống như một Hội đồng Quản trị của một doanh nghiệp hay một hội đồng hành chính công, một Hội đồng trường ĐH không được kỳ vọng phải ra quyết định điều khiển các hoạt động thường nhật vì đó là việc của hiệu trưởng. Vì vậy, những gì còn lại cho HĐT để làm ngoài việc lắng nghe các báo cáo từ hiệu trưởng về sự tiến bộ trong giáo dục (GD), nghiên cứu khoa học (NCKH).

Thực tế là có một lĩnh vực thứ ba của các hoạt động, mà HĐT chịu trách nhiệm, nơi nó đã phải hành động và cần phải có chiến lược riêng cho sự xuất sắc trong một tập thể nhà trường xuất sắc.

Lĩnh vực đó bao gồm tổ chức tổng thể của trường ĐH, huy động, phân phối và sử dụng các nguồn lực kể cả nguồn lực từ bên ngoài (outsourcing), phát triển mô hình quản trị (ra quyết định) của trường ĐH, đặt hàng cho hiệu trưởng và các cán bộ, GV, NV của ông ấy/bà ấy, tức là tất cả các hệ thống và cơ cấu tạo nên hệ sinh thái cho việc nghiên cứu và giảng dạy đạt được sự xuất sắc trong bối cảnh cạnh tranh.

Đây là lĩnh vực mà các thành viên ngoài trường, có kinh nghiệm trong việc ra quyết định và không có lợi ích nội bộ, có thể mang lại sức mạnh cho việc quản lý các trường ĐH của chúng ta. Đây là một lĩnh vực, không được bao phủ bởi hệ thống truyền thống đánh giá đồng cấp. Đây là một lĩnh vực đòi hỏi các công cụ và chính sách khác so với những gì hiệu trưởng đang quản lý GD và NCKH.

Quan điểm của tôi là, với tư cách là một Hội đồng, nên cố gắng đạt được sự xuất sắc trong tổ chức hệ sinh thái cho sự phát triển để tạo dựng sự tự tin cho chính chúng ta. Giờ đây đã có khá nhiều ví dụ về HĐT đã tạo dựng các hệ sinh thái cho nhà trường như thế nào và kết quả ra sao như là Tôn Đức Thắng, Phenikaa, Duy Tân, Nguyễn Tất Thành…

Ngày nay, các trường ĐH được bao quanh bởi sự thay đổi, bởi cạnh tranh khi tuyển sinh và tuyển dụng các nhà khoa học, bởi cạnh tranh về tài chính và những tác động của cơ chế thị trường. Vậy trách nhiệm của Hội đồng trường như thế nào, thưa giáo sư?

- Trách nhiệm của HĐT hết sức nặng nề. Để thành công trong thế giới mới này, các trường ĐH phải nắm bắt cơ hội, điều chỉnh và thích ứng, cải cách và phát triển. HĐT vì thế, không phải được lập ra chỉ để quản lý hoạt động của hiệu trưởng mà là để quản lý sự thay đổi. Bằng cách xác định vai trò của nó như là một tác nhân thay đổi, HĐT sẽ thiết lập bối cảnh cho các sáng kiến ở nhiều cấp độ khác nhau bên trong trường ĐH.

Có thực mới vực được đạo. HĐT khi đã vạch ra những chiến lược thay đổi thì rất cần phải lưu tâm đến nguồn lực, đầu tư và chính sách tạo hệ sinh thái cho hiệu trưởng cùng với các nhân viên của ông ấy/bà ấy, tức là các CB, GV và NV trong trường thực hiện.

Tôi có một đặc ân là trong thời gian 10 năm làm hiệu trưởng trường của chúng tôi đã có một HĐT và Chủ tịch HĐT về cơ bản không tạo một sức ép hoặc hạn chế nào trong công tác quản lý nhà trường và bản thân tôi cũng đã từng sáng tạo.

Tuy vậy, có một điều “bây giờ mới nói” đó là cái giá của sự yên ổn xuất phát từ những hạn chế của HĐQT trong việc thực thi trách nhiệm nhằm tạo ra những thay đổi cần thiết.

Hiệu trưởng là người ra quyết định cuối cùng về nghiên cứu và giáo dục

Theo Giáo sư, làm thế nào để cân bằng giữa Ban lãnh đạo/Chủ tịch HĐT, hiệu trưởng và Đảng ủy trong trường đại học?

- Trong một cuộc thảo luận về vai trò của các HĐT đã đặt ra câu hỏi cuối cùng là: Làm thế nào để chúng ta đạt được sự cân bằng giữa HĐT - thừa nhận vai trò của nó về đảm bảo việc thực thi sự xuất sắc, chuẩn bị để quản lý thay đổi, sẵn sàng điều hành một hệ thống phân bổ các nguồn lực năng động – và cùng với hiệu trưởng – với mong muốn như HĐT - để đạt được tất cả những điều tốt đẹp.

Tuy nhiên, có một nguy cơ rõ ràng là Chủ tịch và Hội đồng có thể hạn chế phạm vi hoạt động của hiệu trưởng và do đó làm suy yếu nội bộ. Làm thế nào để chúng ta xây dựng một đội ngũ gồm hai người hành pháp như vậy? Ngoài ra, còn Đảng ủy trường người có trọng trách thực thi quyền lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối các công việc của nhà trường.

Thứ nhất, tôi nghĩ rằng điều quan trọng là phải nhớ những gì là quyền lực giới hạn mà người ta đã dành cho một ghế chủ tịch. Chủ tịch thậm chí chỉ ra phán quyết khi có được sự đồng ý của Hội đồng hoặc ít nhất là đa số thành viên của Hội đồng. Quyền chính thức duy nhất mà Chủ tịch có thể thực hiện là đưa ra quyết định về nội dung và cấu trúc của chương trình nghị sự của cuộc họp tiếp theo của Hội đồng. Một quyền lực giới hạn - và là một điều thú vị.

Thứ hai, cần nhận ra rằng hiệu trưởng có hai vai trò, một là nhà quản lý, một là nhà khoa học. Người đó là thành viên của HĐT và là động lực trong các lĩnh vực mà HĐT có trách nhiệm, nghĩa là phát triển hệ SINH THÁI cho việc đổi mới nghiên cứu và giáo dục.

Hiệu trưởng đồng thời là người ra quyết định cuối cùng về nghiên cứu và giáo dục, ở các khu vực mà HĐT không được can thiệp. Ông/bà ấy là các Nhà khoa học và giữ vai trò truyền thống của hiệu trưởng trong lịch sử phát triển GD ĐH.

Về vai trò và nhiệm vụ của hiệu trưởng cần lưu ý: Hiệu trưởng là người đứng đầu bộ máy điều hành, có trách nhiệm tổ chức thực hiện đúng mọi chính sách và kế hoạch tổng thể mà HĐT đề ra. Hiệu trưởng phải làm cầu nối giữa HĐT và mọi thành viên trong trường.

Hiệu trưởng chịu trách nhiệm giải trình trước Hội đồng trường về các hoạt động của nhà trường, đảm bảo thành tựu của các chính sách được đề ra và không vi phạm những giới hạn điều hành đã được quy định.

Về quan hệ giữa HĐT với hiệu trưởng và các thành viên của bộ máy của hiệu trưởng cần lưu ý: HĐT lãnh đạo và quản trị cơ sở GD ĐH qua HT, không trực tiếp tác động đến bộ máy của hiệu trưởng.

Hiệu trưởng có trách nhiệm giải trình trước tập thể HĐT, không phải trước từng thành viên. “Khi đã lựa chọn đúng một hiệu trưởng tốt và xác định đúng chính sách thích hợp, HĐT để hiệu trưởng điều hành công việc”. 

Thứ ba, Điều tốt nhất cho HĐT là có một hiệu trưởng mạnh, người cảm thấy rằng họ có thể chủ động và rằng họ có sự hỗ trợ của HĐT như một người quản lý sự thay đổi: "Quản lý tạo ra sự khác biệt và đại diện cho một thành phần chính trong thành công của trường ĐH" (Michael Shattock, Quản lý các trường ĐH thành công, tái bản 2010). HĐT cần làm việc với hiệu trưởng và thông qua hiệu trưởng để triển khai những thay đổi trong nhà trường.

Thứ tư, cần khai thác hai đặc điểm cơ bản của HĐT. Việc xin ý kiến Đảng ủy trường trước khi quyết định các vấn đề mang tính chiến lược, thay đổi và huy động nguồn lực cho sự thay đổi cũng là việc nên làm. Trong bối cảnh như vậy, HĐT phải tính trước mọi tình huống khi xây dựng mô hình quản trị.

Một sự kết hợp hài hòa và phù hợp với bối cảnh của từng trường ĐH là điều mà các HĐT trường nên lựa chọn nhằm thực thi đầy đủ sứ mệnh “đảm bảo giải trình và chịu trách nhiệm với xã hội, tính bền vững, sự minh bạch và giảm thiểu các rủi ro tiềm tàng trong quá trình phát triển của cơ sở giáo dục đại học”.   

Xin trân trọng cám ơn GS!

Trao đổi

Đại biểu Quốc hội Thái Văn Thành: Giao quyền quản lý biên chế cho Bộ GD-ĐT sẽ khắc phục được “điểm nghẽn” của ngành Giáo dục
Giáo dục

Đại biểu Quốc hội Thái Văn Thành: Giao quyền quản lý biên chế cho Bộ GD-ĐT sẽ khắc phục được “điểm nghẽn” của ngành Giáo dục

Theo GS.TS Thái Văn Thành, Ủy viên Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội, Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Nghệ An, việc giao quyền quản lý biên chế cho Bộ GD-ĐT, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đáng ra phải được tiến hành sớm hơn thì sẽ khắc phục được những tồn tại, bất cập và điểm nghẽn lâu nay trong ngành Giáo dục.

Đại biểu Quốc hội Khóa XIII Bùi Thị An: "Để Bộ GD-ĐT chủ động tuyển giáo viên là phù hợp với điều kiện thực tiễn"
Giáo dục

Đại biểu Quốc hội Khóa XIII Bùi Thị An: "Để Bộ GD-ĐT chủ động tuyển giáo viên là phù hợp với điều kiện thực tiễn"

Đại biểu Quốc hội Khóa XIII Bùi Thị An nhìn nhận, việc Bộ GD-ĐT không được quản lý chung về vấn đề biên chế, không được chủ động tuyển giáo viên, phải chờ phân bổ chỉ tiêu từ Bộ Nội vụ và ủy ban nhân dân cấp tỉnh là không phù hợp với điều kiện thực tiễn. Điều này dẫn đến tình trạng có nơi thừa, có nơi thiếu giáo viên; thậm chí ngay trong một trường cũng có tình trạng bộ môn này thừa giáo viên nhưng bộ môn kia lại thiếu.

Bộ GD-ĐT đề nghị xây dựng Nghị quyết về phổ cập giáo dục mầm non
Giáo dục

Bộ GD-ĐT đề nghị xây dựng Nghị quyết về phổ cập giáo dục mầm non

Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Nguyễn Thị Kim Chi cho biết, Bộ GD-ĐT đang đề nghị xây dựng Nghị quyết của Quốc hội về phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em mẫu giáo từ 3 đến 5 tuổi và đổi mới chương trình giáo dục mầm non. Nếu Nghị quyết được ban hành sẽ tạo cơ chế, hành lang chính sách, góp phần phát triển tích cực giáo dục mầm non.

Cần trang bị cho học sinh kiến ​​thức AI cơ bản
Giáo dục

Cần trang bị cho học sinh kiến ​​thức AI cơ bản

Tích hợp năng lực AI vào chương trình giảng dạy, lồng ghép các kỹ năng AI vào nhiều môn học tạo ra một môi trường học tập sáng tạo. Khi học sinh hiểu rõ tiềm năng và giới hạn của AI, họ trở thành những công dân có hiểu biết, có thể tham gia vào các cuộc thảo luận có ý nghĩa về tác động của công nghệ này đối với xã hội.

Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2025: Các môn lựa chọn thi trong 50 phút sẽ khó đánh giá năng lực học sinh
Giáo dục

Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2025: Các môn lựa chọn thi trong 50 phút sẽ khó đánh giá năng lực học sinh

Theo nhiều chuyên gia giáo dục, việc thiết kế phương án thi tốt nghiệp THPT 2025, trong đó tất cả môn thi lựa chọn đều thi trong thời gian 50 phút sẽ khó đánh giá được đúng năng lực của người học. Đặc biệt, có thiết kế 40% câu hỏi lựa chọn đúng sai càng làm tăng khả năng đoán mò của thí sinh, dẫn đến độ giá trị và tính phân loại của đề thi các môn là không tốt.

Bảo đảm sự công bằng giữa các tổ chức kiểm định trong nước và nước ngoài
Giáo dục

Bảo đảm sự công bằng giữa các tổ chức kiểm định trong nước và nước ngoài

Tại Nghị định 125/2024/NĐ-CP quy định về điều kiện đầu tư và hoạt động trong lĩnh vực giáo dục do Chính phủ vừa ban hành, điều kiện để tổ chức kiểm định nước ngoài được hoạt động tại Việt Nam được sửa đổi theo hướng cụ thể và chặt chẽ hơn, bảo đảm sự công bằng giữa các tổ chức kiểm định trong nước và nước ngoài.

Bốc thăm môn thi thứ 3 vào lớp 10: Chưa phù hợp với Chương trình GDPT 2018, gây áp lực tới học sinh
Giáo dục

Bốc thăm môn thi thứ 3 vào lớp 10: Chưa phù hợp với Chương trình GDPT 2018, gây áp lực tới học sinh

Ngày 4.10, Bộ GD-ĐT công bố dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung quy chế tuyển sinh THCS và tuyển sinh THPT thay thế Thông tư 11 hiện hành, trong đó dự kiến quy định thi 3 môn vào lớp 10 với 2 môn thi bắt buộc là môn Toán và môn Ngữ văn, môn thi thứ 3 tổ chức bốc thăm ngẫu nhiên. Nội dung này đang gây nhiều ý kiến tranh luận.

PGS Trần Thành Nam: "Giáo viên vi phạm đạo đức, cần kỷ luật nhưng cũng phải hỗ trợ phục hồi"
Giáo dục

PGS Trần Thành Nam: "Giáo viên vi phạm đạo đức, cần kỷ luật nhưng cũng phải hỗ trợ phục hồi"

PGS.TS Trần Thành Nam, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội cho rằng, cần giữ nghiêm minh các chuẩn mực, nguyên tắc đạo đức của môi trường giáo dục, nhưng không nên mang tính chất trừng phạt, hả hê. Thay vào đó, cần hỗ trợ để giúp người giáo viên phạm lỗi mang tính chất vô tình (do thiếu ý thức trong việc nhận diện tình huống) có cơ hội phục hồi trở lại.

Đào tạo tiến sĩ ở Việt Nam: Vừa thiếu, vừa yếu lại thêm nguyên tắc “có vào thì sẽ có ra”
Giáo dục

Đào tạo tiến sĩ ở Việt Nam: Vừa thiếu, vừa yếu lại thêm nguyên tắc “có vào thì sẽ có ra”

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức – Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học Công nghệ, ĐHQGHN cho biết, mỗi năm chỉ tuyển được khoảng 30% chỉ tiêu nghiên cứu sinh, bên cạnh đó phương châm đào tạo còn lỏng lẻo. Ngoài ra, kinh phí dành cho đào tạo sau đại học, trong đó có đào tạo NCS thấp, và rất thấp so với các nước phát triển trong khu vực và thế giới.

Đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học: Từng bước thí điểm và nhân rộng
Video

Đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học: Từng bước thí điểm và nhân rộng

Báo Đại biểu Nhân dân đã tổ chức tọa đàm “Làm thế nào đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học?”. Tọa đàm nhằm ghi nhận ý kiến đánh giá của các đại biểu Quốc hội, chuyên gia, nhà quản lý về thực trạng hoạt động dạy và học tiếng Anh tại các trường học ở Việt Nam hiện nay. Đồng thời, đề xuất giải pháp để từng bước đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học theo Kết luận 91-KL/TW của Bộ Chính trị.

20.000 tỷ đồng Đề án đào tạo nguồn nhân lực phát triển công nghệ cao sẽ đầu tư vào đâu?
Giáo dục

20.000 tỷ đồng Đề án đào tạo nguồn nhân lực phát triển công nghệ cao sẽ đầu tư vào đâu?

Tổng kinh phí thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu của Đề án đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển công nghệ cao đến năm 2030 dự kiến khoảng 20.000 tỷ đồng, trong đó ngân sách nhà nước (NSNN) khoảng 16.000 tỷ đồng và nguồn vốn hợp pháp khác khoảng 4.000 tỷ đồng.

Tìm giải pháp xây dựng nguồn nhân lực ngành công nghệ cao?
Giáo dục

Tìm giải pháp xây dựng nguồn nhân lực ngành công nghệ cao?

Đội ngũ cán bộ giảng dạy nghiên cứu trong lĩnh vực công nghệ cao còn hạn chế về số lượng và chất lượng; cơ sở hạ tầng, phòng thí nghiệm hiện đại không theo kịp những công nghệ tiên tiến trên thế giới; nhóm nghiên cứu mạnh về lĩnh vực công nghệ cao còn rất ít... giải pháp nào để khắc phục tình trạng trên?