Sau khi Báo Đại biểu Nhân dân đăng bài viết về Nghị định 50/2022/NĐ-CP vừa ban hành, trong đó có“Giảm tuổi nghỉ hưu của Giáo sư từ 70 xuống 65 là “lãng phí chất xám”, GS.TS. NGND Trần Đức Viên, Học viện Nông nghiệp Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội đồng Giáo sư liên ngành Nông nghiệp - Lâm nghiệp bày tỏ quan điểm về vấn đề giảm tuổi công tác của giáo sư từ 70 xuống 65.
Các nhà giáo đã có chức danh giáo sư thì đa số là các nhà giáo đã có những đóng góp về khoa học công nghệ và đào tạo “đáng nể”, và họ cũng là những người đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm quý trong nghề giáo.
Người Việt có câu “thầy giáo già, con hát trẻ” là vì thế; nghề giáo, ngoài các tiêu chuẩn, tiêu chí về đạo đức, lối sống, rất cần tích luỹ kinh nghiệm và kiến thức đủ sâu, đủ rộng.
Nên, nếu để các giáo sư về hưu ở tuổi 65 là một sự lãng phí lớn. Ở không ít các nước phát triển, các giáo sư có thể làm việc tại cơ sở giáo dục đến khi thấy “mệt” thì nghỉ, tất nhiên là họ có quyền nghỉ đúng tuổi hoặc trước tuổi.
Vì thế, trong điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của nước ta, nhà nước chủ trương cho các giáo sư làm việc chính thức đến 70 tuổi, PGS đến 67 tuổi theo Nghị định 141 là một chủ trương đúng, tránh sự lãnh phí chất xám của đội ngũ các nhà giáo kỳ cựu, giàu kinh nghiệm này.
Tuy nhiên, cũng không nên cho kéo dài “cả làng”, nghĩa là nên có tiêu chí định lượng cho các giáo sư được kéo dài đến 70 tuổi, ví dụ, đã là giáo sư thì 2-3 năm phải có ít nhất 01 công bố quốc tế trên các tạp chí khoa học có uy tín hoặc đồng tác giả.
Bởi vì theo “văn hóa học thuật” của một số nước, giáo sư thường đứng sau cùng trong tên tác giả bài báo, nghiên cứu sinh đứng đầu tiên, không nhất thiết phải là tác giả đứng đầu. Ngoài ra, hàng năm có ít nhất 1 bài trên các tạp chí khoa học thuộc danh mục của Hội đồng Giáo sư Nhà nước hoặc viết sách chuyên khảo, tham khảo đúc kết lại các thành tựu khoa học cả đời giảng dạy và nghiên cứu khoa học của mình; hoặc phải hướng dẫn chính nghiên cứu sinh, chủ nhiệm các đề tài khoa học cấp nhà nước, ít ra là cấp Bộ hay các đề tài hợp tác quốc tế có giá trị từ 1 triệu đô la trở lên.
Các giáo sư có hoạt động như vậy để chứng tỏ vẫn đang dấn thân cho sự nghiệp nghiên cứu khoa học và đào tạo đại học, vẫn tiếp tục có những đóng góp xứng đáng cho vị thế, tầm vóc, uy tín của cơ sở đào tạo nơi họ đang làm việc nói riêng, cho giáo dục đại học của nước nhà nói chung.
Thêm nữa, giữa giáo sư và phó giáo sư khác xa nhau về mặt đẳng cấp học thuật, không thể đánh đồng, trong nhiều văn bản nhà nước hiện nay “nhốt” họ vào chung một nhóm là thiếu công bằng với chức danh giáo sư.
Nghị định 141 và thông tư hướng dẫn không nêu rõ các “nhiệm vụ” đóng góp cụ thể của người có chức danh giáo sư được kéo dài để dẫn đến trường hợp kéo dài tràn lan; đã là phó giáo sư thì nghiễm nhiên được kéo dài 7 năm, đã là giáo sư là nghiễm nhiên được kéo dài 10 năm, là một bất cập cần được khắc phục.
Với các trường đại học đã tự chủ, việc cho giáo sư về hay giữ ai, giữ bao lâu, thiết nghĩ Chính phủ và Bộ Chủ quản nên “nhường” cho các trường tự quyết định, theo đúng tinh thần của Nghị quyết 77, Luật số 34 và Nghị định 99, vì các cơ sở đào tạo này đã được nhà nước trao quyền tự chủ về tổ chức, nhân sự và học thuật cùng với các quyền tự chủ khác theo Luật định.
Nhiều thứ trao quyền trên văn bản này nhưng lại “trói buộc” bằng văn bản khác làm cho tiến trình tự chủ đại học thêm “gập gềnh”, làm giảm sút niềm tin của xã hội vào tính tất yếu của tự chủ đại học.