Tránh thất thoát khi thu thay vì tận thu

Minh Vân lược ghi 16/11/2012 08:26

Thảo luận về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân, hầu hết các ý kiến tán thành nâng mức giảm trừ gia cảnh từ 4 triệu lên 9 triệu cho người nộp và mức giảm trừ gia cảnh cho mỗi người phụ thuộc và người nộp từ 1,6 lên 3,6 triệu đồng. Tuy nhiên, vẫn có một số ý kiến cho rằng việc nâng mức giảm trừ gia cảnh như trong dự thảo Luật là chưa hợp lý và làm sai lệch bản chất của thuế thu nhập cá nhân, đưa thuế thu nhập cá nhân trở thành thuế thu nhập cao, đồng thời thu hẹp diện người phải chịu thuế, ảnh hưởng tới nguồn thu ngân sách và không bảo đảm mục tiêu điều tiết và công bằng xã hội.

ĐBQH Lê Công Đỉnh (Long An): Chi hiệu quả, tránh thất thoát lãng phí còn hơn thu nhiều mà sử dụng không hiệu quả
 
Theo tôi việc đánh thuế thu nhập cá nhân phụ thuộc vào các yếu tố sau: trước hết, đó là bảo đảm đời sống người dân ở mức thu nhập thấp và thu hợp lý những người thu nhập cao. Ở những nước phân hóa thu nhập lớn thì thường phải nâng mức giảm trừ hơi cao hơn mức tự duy thì chẳng thu được bao nhiêu ở tầng lớp người nghèo và lũy tiến ngày càng sâu nhằm thu nhiều ở tầng lớp thu nhập cao. Ở đây khoản tự duy gồm ăn, mặc, ở, đi lại, học tập, chữa bệnh và giải trí tối thiểu. Thứ hai, thực hiện chính sách nhà nước đang khuyến khích, ví dụ như chính sách khuyến khích mọi gia đình có 2 con dẫn đến một là chỉ có 2 con phụ thuộc là được chấp nhận. Lúc đó chỉ có những người có đủ điều kiện kinh tế mới suy nghĩ đến việc sinh con thứ ba. Thứ ba, môi trường đầu tư và khuyến khích làm giàu hợp pháp nhằm điều chỉnh mức lũy tiến tới mức thu nhiều hơn ở tầng lớp thu nhập cao. Thứ tư, nhu cầu thu cân đối ngân sách, ở đây theo tôi chúng ta cần lưu ý mục tiêu là tránh thất thoát khi thu thay vì tận thu. Đồng thời chi phải hiệu quả, tránh thất thoát lãng phí còn hơn thu nhiều mà sử dụng không hiệu quả.

Do đó đề nghị cơ quan soạn thảo cung cấp thêm cho ĐBQH theo hướng liên quan đến những yếu tố nêu trên, tức đánh giá cụ thể hơn về tác động của luật đến phát triển KT - XH khi áp dụng luật được thông qua. Đồng thời kiến nghị với UBTVQH  lấy ý kiến ĐBQH trước khi thông qua dự án luật với hai hoặc ba phương án. Điều quan trọng hơn cho biết việc nâng mức giảm trừ ở từng phương án có tác động đến bao nhiêu người ở từng mức thu nhập và làm giảm ngân sách bao nhiêu để QH, ĐBQH có đủ thông tin đối chiếu cân đối giữ được đối với tầng lớp người nghèo và mất đối với thu ngân sách trước khi có chính kiến thông qua.

Đối với mức giảm trừ gia cảnh, về mức giảm trừ cá nhân theo cách phổ biến nhất mức giảm trừ cá nhân là mức tự duy của người lao động trong điều kiện sống bình thường. Nhưng hiện nay chúng ta chưa có công bố chính thức về khoản tự duy này. Tuy nhiên, qua tham khảo các thông tin về điều tra phân tán mức tự duy của người lao động là 7 - 8 triệu đồng/tháng chưa kể giải trí. Đồng thời qua số liệu thống kê cho thấy năm 2010 chỉ số GINI phản ánh chênh lệch về phân phối thu nhập của Việt Nam là 0,43 và hiện tại theo một số chuyên gia có thể cao hơn từ 0,45 - 0,46 trong khi đó chỉ số GINI lên tới 0,4 đã là mức cảnh báo. Điều này cho thấy Việt Nam là nước có mức phân hóa thu nhập lớn, do đó mức giảm trừ cá nhân phải lớn hơn mức tự duy như trên tôi đã nêu tức lớn hơn 7 - 8 triệu đồng. Trong điều kiện dự kiến thu nhập bình quân sẽ tăng trên 15%/năm trong thời gian tới thì mức 9 triệu đồng là chấp nhận được. Mức giảm trừ cá nhân này cũng thể hiện khoan thư sức dân dẫn tới mục tiêu kích cầu. Về mức giảm trừ người phụ thuộc đúng ra cần phải có những điều tra cụ thể về mức tự duy tối thiểu của người phụ thuộc theo 5 loại nhu cầu: ăn, mặc, đi lại, học tập và chữa bệnh ở đây không có giải trí và ở so với người lao động chính. Nhưng theo thông lệ bình thường thì mức này có thể tính từ 30 - 50% mức tự duy được của người lao động tùy theo giá học tập và chữa bệnh của từng nước. Với mức 40% của Chính phủ đề xuất là phù hợp không nên giảm thêm nữa vì thực ra khó lòng giảm xuống dưới 30%, lúc đó theo cách tính số học đối với người có thu nhập thấp thì giảm trừ người phụ thuộc có tác động rất lớn đến việc chăm sóc thế hệ tương lai, tức là con em của chúng ta và người già. Đối với người có thu nhập cao thì giảm mức này xuống cũng không làm tăng thu cho ngân sách được bao nhiêu. Do đó, tôi thống nhất đề xuất của Chính phủ là mức giảm trừ người phụ thuộc là 40%.

Về thời điểm luật có hiệu lực thi hành, tôi tán thành với đề xuất của Chính phủ là từ ngày 1/7/2013 nhằm bảo đảm thời gian cần thiết để Chính phủ triển khai xây dựng, ban hành văn bản hướng dẫn thi hành luật. Đồng thời, nhằm thực hiện các giải pháp tiếp tục tháo gỡ khó khăn cho cá nhân người lao động cũng như góp phần thực hiện chủ trương kích cầu. Tôi đề nghị Chính phủ nên tiếp tục gia hạn việc miễn, giảm thuế thu nhập cá nhân đến ngày luật này có hiệu lực thi hành.
 
ĐBQH Nguyễn Thanh Hải (Hòa Bình): Mức giảm trừ gia cảnh càng cao thì số người phải nộp thuế vào nguồn thu ngân sách sẽ càng giảm  
 
Luật Thuế thu nhập cá nhân ra đời từ năm 2007 và có hiệu lực từ ngày 1/1/2009 thay thế cho Pháp lệnh thuế thu nhập đối với những người có thu nhập cao. Tại kỳ này chúng ta đang xem xét thông qua dự thảo luật sửa đổi, bổ sung của luật này. Có thể nói đây là một trong những luật quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi và nghĩa vụ của từng người dân, không chỉ là những người có các khoản thu nhập hoặc các nguồn thu nhập cá nhân phải chịu thuế mà cả đối với những người dân thuộc các tầng lớp khác như các hộ nghèo, cận nghèo, người có thu nhập thấp vì những lý do như sau:

Thuế thu nhập cá nhân đánh vào thu nhập riêng của cá nhân nhằm mục đích trích một phần tài sản của mỗi cá nhân để phục vụ lợi ích chung của toàn xã hội, các mục đích an sinh xã hội... Với quan điểm người nào thu nhập càng nhiều thì người đó càng phải trích nhiều để phục vụ lại cho xã hội, do vậy, thu nhập càng cao thì thuế phải nộp càng nhiều. Vậy, mức giảm trừ gia cảnh càng cao thì số người phải nộp thuế vào nguồn thu ngân sách sẽ càng bị giảm. Nếu áp dụng vào ngày 1/7/2013 sẽ giảm thu ngân sách 6 tháng cuối năm 2013 là 5.200 tỷ đồng theo báo cáo của Chính phủ. Do đó các nguồn kinh phí phục vụ cho mục đích an sinh xã hội sẽ bị cắt giảm. Có thể nói việc thay đổi mức giảm trừ gia cảnh này sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới những đối tượng có các khoản thu hay nguồn thu phải chịu thuế chiếm 4,4% theo báo cáo của Chính phủ. Đây là những người phải chịu tác động trực tiếp nhưng nó sẽ gián tiếp ảnh hưởng tới các đối tượng nghèo và kinh phí để thực hiện các công trình an sinh xã hội sẽ bị cắt giảm. Do vậy, cần phải có những đóng góp từ nhiều phía để làm sao cân bằng được lợi ích giữa các tầng lớp nhân dân trong xã hội, bảo đảm quyền, lợi ích cơ bản của mỗi người dân và công bằng xã hội.

Tuy nhiên, khi nghiên cứu toàn bộ các tài liệu được cung cấp của dự án luật như báo cáo tổng kết 3 năm thi hành luật, báo cáo đánh giá tác động của dự án luật thì đối tượng được lấy ý kiến thì phần lớn ở các bộ, ban, ngành hay các cơ quan quản lý thuế, các nhà khoa học. Đối tượng là những người nghèo, những người có thu nhập thấp, người cần được xã hội bảo trợ, người yếu thế, chậm phát triển là những đối tượng sẽ chịu ảnh hưởng gián tiếp nếu thay đổi hoàn toàn chưa được quan tâm để lấy ý kiến. Tôi đề nghị Ban soạn thảo nên trình bày thêm các cơ sở khoa học. Hiện tại trong báo cáo chỉ trình bày tham chiếu sự biến động của các yếu tố nhưng không trình bày các cơ sở khoa học đối với việc quy định mức giảm trừ gia cảnh và sự tương quan với các nước lân cận. Tại sao mức giảm trừ gia cảnh của nước ta là 2,5 lần GDP mà Trung Quốc lại là 1,23 lần, Indonesia là 0,527 lần, Malaysia là 0,312 lần?

Nên đánh thuế theo tổng thu nhập thực chứ không nên đánh thuế theo khoản thu nhập. Việc trong luật phân chia thu nhập thành các nguồn chịu thuế và nguồn thu nhập không chịu thuế sẽ làm xuất hiện nguy cơ trốn thuế và cơ quan thuế sẽ không kiểm soát được bởi vì chắc chắn trong xã hội không chỉ tồn tại những nguồn thu nhập được liệt kê trong dự thảo mà còn có nhiều nguồn thu nhập khác. Đó là chưa tính đến nguồn thu nhập mới sẽ xuất hiện cùng với sự phát triển của KT – XH, không biết pháp luật sẽ xử lý ra sao nếu đối với những nguồn thu nhập chưa có trong dự thảo.

Thứ hai, trong luật hiện hành, Điều 7 quy định về kỳ tính thuế đã được phân chia kỳ tính thuế thành ba loại, trong đó, mỗi loại được áp dụng với một nguồn thu nhập cụ thể. Kỳ tính thuế theo năm dương lịch là áp dụng đối với sản xuất, kinh doanh; kỳ tính thuế theo từng lần phát sinh thu nhập áp dụng đối với thu nhập từ đầu tư vốn...; kỳ tính thuế đối với thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán thì áp dụng theo dạng từng lần hoặc theo từng năm. Việc phân chia kỳ tính thuế như trên sẽ dẫn đến hệ quả là người dân phải nộp thuế theo khoản thu nhập riêng lẻ chứ không phải theo tổng thu nhập thực tế, đây chính là sự không công bằng bởi vì có những khoản thu nhập có giá trị âm như lãi suất chứng khoán, doanh nghiệp thu trong hoạt động kinh doanh... rõ ràng người dân đã phải chịu thiệt thòi tổng thu nhập tính thuế trong thời kỳ tính thuế của họ có thể là bằng không, thậm chí có thể âm nhưng họ vẫn phải nộp thuế, chỉ vì có những khoản thu nhập tính thuế nào đó của họ mang lại giá trị dương...
 
ĐBQH Trần Du Lịch (TP Hồ Chí Minh): Nếu không ảnh hưởng lớn tới nguồn thu thì nên bỏ bậc 7
 
Việc ban hành Luật Thuế thu nhập cá nhân đầu nhiệm kỳ QH Khóa XII nằm trong lộ trình cải cách thuế của Chính phủ giai đoạn 2001 - 2010. Trong lộ trình cải cách thuế này có việc tăng đầu thuế trực thu và giảm phần thuế gián thu để tạo công bằng xã hội, thuế thu nhập cá nhân ra đời thay cho Pháp lệnh thuế thu nhập cao. Tuy nhiên, khi thực hiện lại vướng tình hình kinh tế, dường như những điều kiện để thực thi không bảo đảm do đó gây những bức xúc mà yêu cầu cuộc sống phải xử lý vấn đề giảm trừ gia cảnh. Ở đây tôi nêu rõ một vấn đề, kinh nghiệm thế giới khi đánh thuế thu nhập cá nhân và bản chất của nó như chúng ta đã biết bao giờ nó kèm theo 3 điều kiện: điều kiện thứ nhất là tùy thuộc vào tình hình phát triển kinh tế, GDP tính theo đầu người, trình độ phát triển cho phép. Điều kiện thứ hai là khả năng kiểm soát thu nhập, kiểm soát dòng thu nhập để tạo công bằng trong hành thu. Điều kiện thứ ba là phúc lợi xã hội, phúc lợi công cộng tăng lên để người dân chi cho các dịch vụ công cộng giảm đi và họ dùng thu nhập sau thuế để chi chủ yếu cho phúc lợi cá nhân.

Thuế có một ý nghĩa rất lớn mà mọi người có nghĩa vụ phải đóng. Dĩ nhiên trong điều kiện của ta, đối chiếu 3 điều kiện này như thế nào? Như đã biết, tăng trưởng kinh tế của ta có tăng nhưng lạm phát cao ngay thời điểm áp dụng thuế. Thứ hai, khả năng hành thu, chúng ta chỉ thu được những người làm công ăn lương, những người không thể “trốn” được thu nhập, còn thu nhập tự do thì không kiểm soát được, tạo bức xúc, bất công.

Vấn đề thứ hai, về thời điểm, đáng lý nếu như chúng ta chưa thông qua ngân sách năm 2013, bây giờ bàn thời điểm thì nó hợp lý hơn. Nhưng lại thông qua rồi, nếu áp dụng từ 1/1 thì có khi ảnh hưởng đến ngân sách ta vừa thông qua, nhưng cuộc sống đang rất bức xúc muốn luật có hiệu lực từ mùng 1/1/2013, vì sự chờ đợi luật này rất lớn, tôi vẫn nghiêng về khuynh hướng như vậy.

Điểm thứ ba, tôi chưa thấy có ý kiến đề cập, đó là có nên chăng bỏ bớt mức thuế bậc 7, tức là 35%. Tôi kiến nghị Thường vụ xem lại mức này là nếu bỏ thì thất thu bao nhiêu để cân nhắc, bởi vì cái này nó hai yếu tố rất quan trọng: thứ nhất, thu không được nhiều, nhưng cảm thấy thuế cao. Và nếu bỏ bậc 7 thì Việt Nam sẽ có sức cạnh tranh rất lớn trong thu hút đầu tư bởi mức thuế thu nhập ở mức dưới 30%. Một điểm nữa, đa số phần đối tượng làm công ăn lương rơi vào cán bộ khoa học kỹ thuật, những chuyên gia giỏi, những người làm quản lý cao thì không có động lực. Tôi đề nghị hết sức cân nhắc, nếu không ảnh hưởng nguồn thu lớn thì nên bỏ bậc 7.
 
ĐBQH Chu Đức Quang (Lạng Sơn): Nên giãn khoảng cách các bậc thuế
 
Do chịu sự ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và suy thoái toàn cầu, tình hình KT – XH nước ta gặp nhiều khó khăn, giá cả nhiều mặt hàng hóa và dịch vụ tăng cao làm ảnh hưởng tới đời sống của người dân. Chính vì sự biến động nhanh nên một số quy định trong Luật Thuế thu nhập cá nhân hiện hành đã bộc lộ những tồn tại, hạn chế chưa phù hợp với thực tế. Một số quy định còn phức tạp phát sinh thủ tục hành chính, chưa tạo thuận lợi cho người nộp thuế và khó khăn trong công tác quản lý thuế. Việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân là rất cần thiết trong tình hình hiện nay nhằm đáp ứng yêu cầu về cải cách thủ tục hành chính bảo đảm đơn giản hóa hành chính tạo thuận lợi cho người nộp thuế và công tác quản lý thuế tạo điều kiện cho việc hiện đại hóa quản lý thuế. Thứ hai là bảo đảm công bằng trong điều tiết thu nhập, động viên một cách hợp lý thu nhập dân cư công bằng góp phần ổn định nâng cao đời sống của người nộp thuế. Thứ ba là giảm bớt điều tiết thuế đối với cá nhân, thu hút được nhiều chuyên gia lao động giỏi có thu nhập cao vào Việt Nam làm việc, phục vụ phát triển KT - XH của đất nước.

Điều 19 về giảm trừ gia cảnh, trước bối cảnh khó khăn của nền kinh tế, chỉ số giá tiêu dùng đang có xu hướng tăng lên như điện, xăng dầu, một số loại phí mới đang được phát sinh. Đặc biệt trong hai năm gần đây chỉ số giá luôn ở mức 2 con số như năm 2010 là 11,75%, năm 2011 là 18,13% nên mức giảm trừ gia cảnh ở mức 4 triệu đồng/tháng cho người nộp thuế và 1,6 triệu đồng/tháng cho người phụ thuộc không còn phù hợp. Vì thế việc điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh là rất cần thiết. Tôi tán thành với quy định như trong dự thảo Luật là 9 triệu đồng/tháng đối với người nộp thuế và 3,6 triệu đồng đối với mỗi người phụ thuộc với mức giảm trừ gia cảnh này vừa đạt được mục tiêu giảm động viên vừa hướng vào đối tượng có khó khăn, vừa có ý nghĩa xã hội, thể hiện sự chia sẻ của Nhà nước với nhân dân và bảo đảm tính ổn định của luật trong thời gian dài. Trong trường hợp chỉ số giá tiêu dùng biến động trên 20% theo tôi nên giao cho Chính phủ quy định để bảo đảm tính chủ động, nhanh chóng, phù hợp với cải cách thủ tục hành chính và đơn giản hóa chính sách.

Thứ hai, Khoản 2 Điều 22 về biểu thuế lũy tiến từng phần, tôi đề nghị nên sửa biểu thuế suất theo hướng giãn khoảng cách các bậc thuế xuống còn 5 bậc với các mức thuế suất 5%, 10%, 15%, 25% và 35%.

Về thời điểm luật có hiệu lực thi hành, đề nghị nên quy định thời điểm áp dụng luật là bắt đầu từ ngày 1/1/2013 với lý do: thứ nhất, Luật Thuế thu nhập cá nhân hiện hành được QKH thông qua năm 2007 mới có hiệu lực từ 1/1/2009, các văn bản hướng dẫn luật thuế đã có, số người đã có mã số thuế cá nhân và thực hiện về Luật Thuế thu nhập cá nhân tương đối nhiều nên việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân nên có hiệu lực ngay. Thứ hai, nền kinh tế nước ta đang có nhiều biến động lớn nên việc kéo dài thời gian áp dụng các quy định của Luật Thuế thu nhập cá nhân có thể làm giảm tính khả thi của luật, kéo theo những nhu cầu sửa đổi của luật.
 
ĐBQH Nguyễn Văn Cảnh (Bình Định): QH cần quyết định mức giảm trừ gia cảnh khi CPI biến động trên 20%
 
Quy định tại Điều 1, Khoản 5 đó là trường hợp chỉ số giá tiêu dùng CPI biến động trên 20% so với thời điểm luật có hiệu lực hoặc thời điểm mức giảm trừ gia cảnh gần nhất Chính phủ trình UBTVQH điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh bằng tiền quy định tại khoản này cho phù hợp với sự biến động. Cũng có ý kiến cho rằng nên giao cho Chính phủ quy định để bảo đảm tính chủ động khi giá cả biến động bất thường. Tôi không đồng tình với hai phương án trên với lý do về mức giảm trừ gia cảnh đã được QH trao đổi, phân tích dựa trên các điều kiện về kinh tế của đất nước và điều kiện sống của người dân trên phạm vi cả nước thì mới đi đến quyết định. Theo tôi khi thay đổi mức này, QH phải thay đổi mới phù hợp, như vậy mới bảo đảm tính đại diện trực tiếp cho cử tri cả nước. Tôi đề nghị quy định lại trường hợp chỉ số giá tiêu dùng CPI biến đổi trên 20% so với thời điểm luật có hiệu lực hoặc thời điểm điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh gần nhất Chính phủ trình để xem xét thông qua tại kỳ họp gần nhất bởi vì theo tôi việc thay đổi giá CPI không thể thay đổi trong vài ngày hay vài tuần mà QH 6 tháng họp một lần nên có thể chờ đến 6 tháng để xem xét kỹ quyết định vấn đề này cho phù hợp.

Tôi đề nghị đối với các dự án luật sau này nếu liên quan đến con số trực tiếp thường thay đổi để phù hợp với điều kiện kinh tế của mỗi giai đoạn thì sẽ lập một bảng biểu cuối dự án luật để từ đó QH xem xét thông qua tại kỳ họp gần nhất, như vậy sẽ giảm bớt thời gian cũng như chi phí xây dựng dự án luật sửa đổi, bổ sung một số điều liên quan đến những con số không cần thiết.

    Nổi bật
        Mới nhất
        Tránh thất thoát khi thu thay vì tận thu
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO