Trần gian nhìn từ sau lưng (Phần cuối)
Truyện ngắn của Nguyễn Hiệp

06/05/2008 00:00

      >>Trần gian nhìn từ sau lưng (Phần một)

      Những ngày này, tự dưng đầu ông nóng ran, ông tìm mua quyển luật đất đai, ông đọc đi đọc lại, gạch dưới, đóng khung từng câu, mực đỏ, mực xanh, dấu hỏi, dấu than hiện dày trên từng trang luật. Ông viết nắn nót từng chữ lột tả nỗi niềm, ông trích cẩn thận từng câu luật lệ nghiêm cẩn, thỉnh thoảng ông dừng lại lầm rầm một mình: “Lấy cái... tinh thần”, ông mơ hồ thấy như mình đang từng bước từng bước chạm đến chân trời của sự công bằng, của sự phải đạo, của cái điều minh bạch mơ được ước thấy ngàn đời. 
      … “Kính gửi…
      Tôi đứng tên dưới đây là…
      Tôi làm đơn này kính trình lên cơ quan công lý, lên Tòa án Nhân dân, lên Viện Kiểm sát Nhân dân…
      Nguyên lô đất 100-10, rộng…, dài…, đông giáp..., tây giáp…, bắc giáp…, nam giáp… vốn là đất thừa kế của vợ chồng tôi từ đời khẩn hoang lập ấp cha ông chúng tôi để lại. Chúng tôi sinh ra và ở trên lô đất này cả ba thế hệ, có nộp thuế đầy đủ theo chế độ thuế hiện hành. Vì thương tình, vào năm… vợ chồng chúng tôi bàn với nhau cho không bốn mét, tính theo mặt tiền, cho ông Lê Văn…, người mà chúng tôi vốn coi như là con nuôi của mình. Nay, ông Lê Văn… qua đời, nhưng chẳng biết bằng cách nào, cô Lê Thị…, con ông Lê Văn, lại làm được quyển sổ đỏ sở hữu luôn cả phần đất của chúng tôi (hai mươi mét chiều ngang). 
      Bản thân tôi cũng đã già nua, sức cùng lực kiệt, chẳng còn ham hố gì nữa, mất gì tôi cũng bỏ qua được, nhưng mất đất thật chẳng cái nhục nào bằng. Đây là sự cướp đất trắng trợn ngay khi tôi còn sống sờ sờ ra đây…
      Tôi làm đơn này tha thiết kính xin…”
 
      Ông viết. Ông gửi đi, kính gửi các nơi mà ông biết được, có đơn ông còn viết cả câu: “Lấy cái... tinh thần là chính”. Các cánh cửa vẫn lặng im. Chồng đơn dày lên. Viện kiểm sát huyện đã thụ lý hồ sơ. Ông cuộn người chờ. Tòa án đã xử. Thất bại, ông khiếu kiện lên cấp trên. Lại hy vọng. Lại chờ. Kết quả y án. Ông vẫn tiếp tục viết đơn, lành với Bụt ông quyết không lành với ma. Báo chí lên tiếng. Dân chúng trên con đường bức xúc, sẵn sàng làm chứng bênh vực ông già. 
      Tòa án cấp trên nữa đã xử. Nội dung bản án phúc thẩm: Y án. Ông như chiếc lá rụng khỏi thân cây hy vọng. Nghe đâu cô ta có người bà con làm chức quan cao lắm nên quan cấp dưới né tránh, sợ mất ghế. 
      Ông vẫn tiếp tục viết nhưng không gửi đi đâu nữa, ông viết theo quán tính, thói quen, phản xạ có điều kiện, như sự tiết nước miếng của con chó trong thí nghiệm, dịch vị của chó bình thường mỗi phút tiết ra hai mươi lăm giọt, ông “tiết” ra mỗi phút cả trăm từ. Mỗi khi vớ được cây bút, mảnh giấy là ông viết, viết hăng như con chó trong phòng thí nghiệm nghe tiếng chân người bê thức ăn mà số giọt dịch vị tăng lên cả trăm cả ngàn. Ông cần viết như cần thở, cần ăn, cần thức, cần ngủ cho đủ đầy một kiếp trần ai. Ông cần “lấy cái... tinh thần” như vặn một thứ dây cót cho những ngày sống cuối đời, cho chút hơi thở tà dương còn mang ý nghĩa.
      Hạnh phúc có thật trong lòng ông già râu trắng khi ông phát hiện con mắt sau lưng của mình còn nhìn thấy được cả quá khứ. Ông nhắm hai mắt trên khuôn mặt của mình lại không nhìn phía trước nữa để tập trung cho cái nhìn từ sau lưng. Bao nhiêu năm tháng ông khao khát nhìn lại được nụ cười của vợ ông không ngờ bây giờ điều mơ ước ấy đã thành hiện thực. Nhưng tức chết là cứ mỗi lần hình ảnh nụ cười của vợ ông hiện lên là hình ảnh cái “thằng bố” rách rưới ấy cũng hiện lên cùng lúc. Ông thấy như in cái ngày đầu tiên “thằng bố” rách rưới ấy bưng đến cho vợ chồng ông dĩa bắp luộc bốc khói, loại bắp nếp hột nhỏ ấy sao mà thơm ngon. “Mệ ăn đi kẻo nguội!”, “thằng bố” ấy nhìn vợ ông trìu mến mà nói như vậy, chả lẽ lời ấy, thái độ ấy lại của kẻ giả dối, kẻ mưu đồ ư? Ông cũng nhớ như in chính “thằng bố” Lê Văn... ấy khom vai một đầu võng cùng ông lụi hụi chạy đến bệnh viện trong đêm khi bà vợ ông bị mấy viên sỏi bàng quang hành cho đau xé người ngất lên ngất xuống. Thương cảm vậy đó nên vợ chồng ông mới gọi “thằng bố” ấy đến cho mấy thước đất phía tây. Chính bà vợ ông lận lưng quần ra, mở hai lớp kim băng, lấy đưa cho “thằng bố” ấy chiếc nhẫn dành dụm cắc củm một đời để cho con trai của mình cưới vợ. “Phận em nó ngắn ngủi, con cầm chiếc nhẫn này mua lá mua cây làm nhà, có cái mà đụt mưa đụt nắng với người ta, con à”. Vợ ông là người như vậy, bà ấy sống tốt với mọi người cho đến ngày nhắm mắt xuôi tay. 
      Ông bần thần ngồi hồi lâu, chợt cái buổi trưa nghiệt ngã ấy hiện ra mồn một, cái buổi trưa mà chỉ cần gợn lên trong đầu ông đã rùng mình...
      Thấy vợ với lên hiên nhà bếp lấy cái ní xắn măng xuống lau lau chùi chùi có vẻ chú tâm lắm, ông hỏi: “Làm gì?”. “Kiếm mấy mụt măng nấu cháo”. “Tôi đi cho!”. “Ông nghỉ đi! Tôi chỉ vào bìa rừng đây thôi mà”. Đúng là bà chỉ vào tới bìa rừng, những mụt măng vàng óng đến ngon mắt sờ sờ trong bụi tre gai bên đường hút lấy mắt bà, hút hết hồn bà. Phải chi bà tỉnh táo mà sựng lại thắc mắc: “Sao sờ sờ đó mà không ai xắn? Sao bụi tre ngay bên đường mà không thấy dấu chân người bén mảng?” thì đâu trở thành nạn nhân của bầy ong dữ, đâu trở thành cái xác còng queo tím máu trong bụi tre trưa ngày hôm ấy. Vợ ông đổi sự sống lấy chút mụt măng nấu cháo mà chẳng được, cây ní chắn ngang trên ngực như một sự bày đặt tang thương đau xót của người tìm kiếm miếng ăn nhỏ mọn, của người đi vào ngõ cụt đói nghèo. Phải chi con trai ông đừng bị chiến tranh cướp mất sự sống thì giờ đây hẳn là con cháu đã đầy đàn, đã chật mảnh đất này, tiếng cười nói ríu ran của chúng đã rộn ràng khu vườn này. Phải chi vợ chồng ông là người đành đoạn bán đất để ăn thì không có cái chết buồn tủi của vợ ông, thì làm gì có cuộc “cướp ngày” trâng tráo này. Cứ nghĩ thương người như thể thương thân là phải đạo, có ai ngờ đâu cái thói đời nó đáng khinh bỉ đến vậy. Ai có ngờ đâu “thằng bố” ấy chết chưa đầy năm, lũ con cháu du côn du đãng kia lại lén lút “đi đêm” để có được quyết định pháp lý chủ quyền sử dụng toàn bộ lô đất của ông, không hiểu vì điều gì mà người ta lại nhẫn tâm chứng thực cho bản thỏa thuận phân chia tài sản thừa kế ấy, mà theo thỏa thuận này xem như toàn bộ đất đai của ông đều là di sản của “thằng bố” Lê Văn... để lại cho con mình.
      Từ ngày thua kiện, ông cứ như người lẩn thẩn, hết ngồi bó gối khóc thương cặp heo đốm, ông lại lục tục cả ngày cả đêm lôi hết các loại sách vở trong nhà ra, hễ chỗ nào có trang trắng, nửa trang trắng là ông viết đơn khiếu nại vào đó, ông không thể dừng lại được nữa rồi. Người trên con đường thấy vậy buột miệng: “Ông già bị bệnh kiện”. Có người đi qua thở ra rồi thì thào: “Trời gần sáng là lúc trời tối nhất. Đợi thôi!”
      Một cán bộ trực tính ở huyện ủng hộ việc kiện cáo của ông, bước vào nhà định hướng dẫn cho ông đường đi nước bước để lặp lại vụ kiện. Nhưng ngay chính hôm ấy anh này phát hiện ra ông già đã bệnh xơ gan cổ trướng, bụng phình lên cứng ngắc, cứ một chặp lại thấy ông đi vào nhà cầu, lại ra mồ hôi rịn đầy trên trán, rồi lại vào với cái bụng trương ướng. Ông cứ ngồi ì luôn trong đó hí hoáy viết đơn vào trong những tờ giấy vệ sinh, viết xong lại xỏ từng tờ cẩn thận trở lại vào cọng kẽm móc. 
      Ông tắt thở, dân làng đến đập cửa tẩm liệm cho ông. Vừa khiêng xác bỏ vào hòm, ông lại sống lại. Tiếng nói đầu tiên ông thốt lên trong lúc mọi người đang còn bàng hoàng là “cây... viết...”. Ai đó rút một cây viết bi từ túi áo ngực đặt vào tay ông. Người ta thấy ông mở mắt ra, tay quơ một bó giấy súc, loại giấy mềm vàng đục để tẩm liệm xác chết, ông mở bung ra và bắt đầu viết. Đám đông tò mò theo dõi... “Đơn kiện”... “Lại đơn kiện!”. Ai đó thốt lên xót xa. Đột nhiên bụng ông vồng lên, co giật liên hồi. Cây viết văng ra. Cuộn giấy súc quấn ngang người ông. Tất cả lại đột ngột yên lặng trở lại. Người đàn ông làm công việc tẩm liệm đưa ngón tay ngang mũi ông già kiểm tra hơi thở, lắc đầu: “Đi rồi!”. 
      Mọi người giãn ra. Chuẩn bị đậy nắp. “Chiêng trống đâu, nhớ là trống phải theo chiêng...”. Câu nói của người đàn ông tẩm liệm đang nửa chừng thì im bặt. Không phải mình ông mà cả những người xung quanh đều nghe rõ ràng tiếng nói ông già phát ra từ quan tài. Người ta lại đưa ngón tay ngang mũi, lại giật mình vì hai tiếng “cây... viết” vừa thốt ra rõ ràng từ miệng ông già. Viết lại được đặt vào tay. Giấy súc lại mở bung ra. “Lại đơn kiện!”. Ai đó thốt lên. Lần này ông già viết như một con ma nhập xác, ngón tay run run giật giật nhưng chữ vẫn lả lướt rồng bay phượng múa, có điều rồng phượng giờ đã tàn lực tàn hơi nên có ngoằn ngoèo đôi chút. “Còn một hơi thở thì rồng phượng vẫn cứ là rồng phượng chớ sao!”. Vài người bình luận.
      Một bó giấy súc khác vừa được bung ra thì bụng ông lại trương lên, vồng lên, toàn thân ông giật nảy liên tiếp mấy bận. Có người quay mặt đi. Có người chồm tới tìm cây viết đặt vào tay ông già nhưng cơn co giật làm văng ra, lại đặt vào, lại văng ra... Khi các ngón tay co rút lại nắm chặt cây viết, ai cũng nghĩ chạm được cây viết ông sẽ hồi dương, sẽ viết, người ta chờ đợi hai chữ “đơn kiện” sẽ hiện ra trên mặt giấy đục vàng. Nhưng không, các ngón tay vàng tái đầy gân xanh của ông từ từ giãn ra, giãn ra rồi cả hai bàn tay buông thõng. Cây bút dường như cũng tắt thở ngã ngoẹo trên lòng bàn tay. 
      Anh cán bộ huyện bảo người đàn ông tẩm liệm lật xác ông già úp xuống. “Để lưng quay lên, cho già lấy cái... tinh thần”. Vừa nhớ lại lời dặn khó hiểu ấy, vừa quấn gọn các vòng giấy “đơn kiện” quanh xác ông già, giọt nước mắt của anh cán bộ huyện chợt rơi xuống ướt một góc giấy, anh vội chùi lia lịa. Anh cứ ân hận vì để giọt nước mắt rớt vào quan tài, “người chết sẽ không siêu thoát”. Chợt ngay lúc ấy, lưng áo của ông già căng ra, căng ra. Người tẩm liệm thụt lùi, thụt lùi, rồi bật ngửa xuống nền nhà. Mọi người nhào tới, trố mắt đứng như trời trồng: Làn da lưng ông già đã rách toạc, hình hài một con mắt ướt rượt, đỏ hoe trồi lên, bẹp xuống, phập phồng, máu trong con mắt ấy lan ra, rịn ra, đọng thành hình giọt lệ. Chỉ anh cán bộ huyện là còn chút tỉnh táo nhưng mồ hôi cũng nhòe nhoẹt hai bên thái dương. Chần chừ một thoáng vì sợ hãi nhưng cuối cùng bàn tay run run của anh cũng đặt lên con mắt, khẽ khàng vuốt một đường xuôi xuống. Con mắt chợt dịu lại, khép lại rồi lặn chìm vào trong da thịt. 
      Từ hôm ông già ra đi, quán xá lấn át chùa chiền, son phấn ứ mùi, không còn ai gọi con đường ấy là Miền Thơm nữa, mặc dù hàng lư nhang to lớn đủ dạng dát vàng, dát đồng, sơn xanh, sơn đỏ ngày càng thêm ra, đủ sắc. Nghe nói loài cỏ thơm tự dưng lại lụn chết hết.

    Nổi bật
        Mới nhất
        Trần gian nhìn từ sau lưng (Phần cuối)<br><i>Truyện ngắn của Nguyễn Hiệp</i>
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO