Nhiều trẻ vị thành niên lên kế hoạch tự tử vì trầm cảm
Trường hợp bệnh nhân N.T.L (19 tuổi) nhập viện vì buồn chán, có ý định tự sát bằng cách treo cổ.
Khai thác thông tin, gia đình có 2 người con, nên L luôn cảm thấy bị thiệt thòi tình cảm khiến mâu thuẫn giữa hai chị em thường xuyên xảy ra. Khi người bố đột ngột ốm nặng, cô rơi vào trạng thái lo lắng, mất ngủ, chán ăn, sụt 3kg trong 2 tuần. Đồng thời, trẻ không còn hứng thú với học tập, xa lánh bạn bè, thường xuyên nghĩ đến cái chết và lên kế hoạch tự sát (mua dây về treo cổ).
Gia đình đã đưa trẻ đến Viện Sức khỏe tâm thần - Bệnh viện Bạch Mai thăm khám. Qua đánh giá lâm sàng và khai thác bệnh sử, các bác sĩ xác định trẻ đang ở giai đoạn trầm cảm nặng không kèm triệu chứng loạn thần, có hành vi tự sát.

Thêm trường hợp, bệnh nhân N.T.H (15 tuổi) nhập viện sau khi uống thuốc diệt chuột tự sát.
Được biết, H sống với bố từ năm 6 tuổi sau khi bố mẹ ly dị. Người bố thường xuyên uống rượu, mắng chửi vô cớ và cấm con liên lạc với mẹ. Ở trường, H. bị bạn bè xa lánh, bắt nạt, nhưng không nhận được sự hỗ trợ từ gia đình.
Người bệnh dần thu mình, mất ngủ, cắt tay tự hủy hoại và cuối cùng uống thuốc tự hủy hoại bản thân. Qua thăm khám tại Viện Sức khỏe tâm thần, các bác sĩ chẩn đoán trẻ bị: Trầm cảm nặng kèm hành vi tự sát, stress kéo dài.
Cả hai trường hợp đều cho thấy, trầm cảm ở tuổi vị thành niên thường khởi phát từ áp lực gia đình, mâu thuẫn xã hội và thiếu sự quan tâm kịp thời. Hậu quả không chỉ dừng ở suy giảm học tập mà còn đe dọa tính mạng.
Nguyên nhân sinh bệnh đa dạng và phức tạp
Theo BS.CKII Bùi Văn Lợi - Viện Sức khỏe tâm thần, Bệnh viện Bạch Mai, trầm cảm ở vị thành niên là một vấn đề sức khỏe tâm thần phức tạp, bắt nguồn từ sự tương tác của nhiều yếu tố khác nhau. Cụ thể :
Yếu tố sinh học
- Gen - Di truyền: Trẻ có cha mẹ mắc trầm cảm có nguy cơ cao gấp 2 lần. Các gen như SLC6A4, 5-HTTLPR, BDNF,… liên quan đến điều hòa serotonin.
- Mất cân bằng chất dẫn truyền thần kinh: Giảm serotonin (ảnh hưởng tâm trạng), dopamine (mất hứng thú) và norepinephrine (giảm năng lượng). Sự mất cân bằng giữa chất kích thích (glutamate) và ức chế (GABA) cũng góp phần vào rối loạn cảm xúc.
- Thay đổi giải phẫu não: Giảm thể tích vùng hồi hải mã, tăng hoạt động hạch hạnh nhân (gây ra các phản ứng sợ hãi căng thẳng thái quá, phản ứng tiêu cực mãnh liệt) và giảm thể tích vỏ não trước trán.
Yếu tố tâm lý - xã hội
- Gia đình: Ly hôn, bạo lực, thiếu quan tâm (như trường hợp H.).
- Học đường: Bắt nạt, áp lực thi cử (như L. và H.).
- Cá nhân: Tính cách nhạy cảm, khó chia sẻ cảm xúc. Các sự kiện trong cuộc sống (bỏ học, cha mẹ mất, khó khăn tài chính trong gia đình, mất bạn bè hoặc thành viên trong gia đình bị bệnh) cũng có thể là yếu tố nguy cơ.
Với những người trải qua các trải nghiệm tiêu cực nghiêm trọng trong thời thơ ấu như bị lạm dụng, bạo hành trải qua các triệu chứng trầm cảm cao hơn khi phải đối mặt với các yếu tố gây căng thẳng hiện tại.
Bác sĩ lưu ý, không phải ai tiếp xúc với trải nghiệm đau thương cũng trở nên chán nản. Tính cách và thời điểm xảy ra các sự kiện đều liên quan đến mối quan hệ giữa trầm cảm và các sự kiện cuộc sống căng thẳng, mặc dù các yếu tố sinh học như chức năng serotonergic cũng bị ảnh hưởng.

Dấu hiệu nhận biết trầm cảm tuổi vị thành niên
BS.CKII Bùi Văn Lợi - Viện Sức khỏe tâm thần, Bệnh viện Bạch Mai cho biết, trầm cảm ở tuổi vị thành niên có thể biểu hiện qua nhiều dấu hiệu khác nhau, đôi khi dễ bị bỏ qua hoặc nhầm lẫn với những thay đổi tâm sinh lý bình thường của lứa tuổi. Các dấu hiệu bao gồm:
Cảm xúc
- Buồn bã vô cớ, có thể bao gồm những cơn khóc không rõ lý do.
- Cảm thấy vô vọng hoặc trống rỗng.
- Tâm trạng cáu kỉnh hoặc khó chịu, dễ tức giận cáu gắt vì những chuyện nhỏ.
- Mất hứng thú hoặc niềm vui trong các thú vui sở thích trước đây.
- Cảm giác vô giá trị hoặc tội lỗi.
- Nhớ về những sự kiện buồn khi còn nhỏ, tự trách bản thân và gia đình.
- Cực kỳ nhạy cảm với sự từ chối hoặc thất bại.
- Khó suy nghĩ, tập trung, đưa ra quyết định và ghi nhớ mọi thứ.
- Cảm giác tương lai thật ảm đạm và u ám.
- Thường xuyên nghĩ đến cái chết.
Hành vi
- Mất ngủ hoặc ngủ nhiều hơn so với mức bình thường.
- Thay đổi cảm giác ngon miệng: giảm cảm giác thèm ăn và sụt cân, hoặc tăng cảm giác thèm ăn và tăng cân.
- Sử dụng rượu hoặc chất để cố làm mình dễ chịu hơn.
- Kích động hoặc bồn chồn, đi lại nhiều, không thể ngồi yên.
- Kết quả học tập kém hoặc thường xuyên nghỉ học, bỏ học.
- Ít chú ý đến vệ sinh cá nhân hoặc ngoại hình.
- Bùng nổ cơn giận dữ vô cớ, hành vi gây rối.
- Tự làm đau bản thân (hành vi tự gây thương tích)
- Lên kế hoạch tự sát hoặc cố gắng tự sát.
Nhận thức
- Giảm tập trung, học tập sa sút, khó đưa ra quyết định.
- Ở tuổi dậy thì, trầm cảm thường biểu hiện qua cáu kỉnh thay vì buồn bã, dễ bị nhầm lẫn với "khủng hoảng tuổi teen".
Ngoài ra, trầm cảm ở vị thành niên có thể đi kèm với các rối loạn đồng mắc khác, bao gồm: Rối loạn liên quan đến sử dụng chất; Rối loạn hoảng sợ; Rối loạn ám ảnh cưỡng bức; Chán ăn tâm thần; Ăn vô độ tâm thần; Rối loạn nhân cách ranh giới.
Đặc biệt, có nhiều phương pháp có giá trị trong đánh giá trầm cảm ở vị thành niên, từ xét nghiệm các gen, chất dẫn truyền thần kinh liên quan và các phương pháp chẩn đoán hình ảnh - thăm dò chức năng như chụp cắt lớp vi tính, cộng hưởng từ, cộng hưởng từ chức năng não bộ (fMRI), điện não đồ (thông thường, video, định lượng),… cho đến việc sử một số trắc nghiệm tâm lý như: PHQ-A (Patient Health Questionnaire for Adolescents), RADS (Reynolds Adolescent Depression Scale) Beck Depression Inventory – Youth (BDI-Y),…, góp phần giúp chẩn đoán và theo dõi điều trị.
Sự quan tâm là chìa khóa phòng ngừa trầm cảm tuổi vị thành niên
Theo BS.CKII Bùi Văn Lợi - Viện Sức khỏe tâm thần, Bệnh viện Bạch Mai, phòng ngừa trầm cảm ở vị thành niên đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội.
Trong đó, về phía gia đình nên dành thời gian lắng nghe, tránh so sánh giữa các con; can thiệp kịp thời khi trẻ có dấu hiệu bị bắt nạt hoặc stress. Về phía nhà trường, cần tổ chức hoạt động tư vấn tâm lý, phát hiện sớm học sinh có nguy cơ; giáo dục kỹ năng ứng phó với áp lực. Đối với cá nhân, hãy khuyến khích trẻ tham gia thể thao, nghệ thuật để giải tỏa cảm xúc.
Đặc biệt, phát hiện sớm và điều trị kịp thời đóng vai trò quan trọng trong việc cải thiện tiên lượng của trầm cảm ở vị thành niên. Cần đưa trẻ đi khám bác sĩ chuyên khoa tâm thần khi có các dấu hiệu như:
-Trẻ có ý định tự sát hoặc hành vi tự hủy hoại.
- Triệu chứng (buồn chán, mất ngủ, chán ăn) kéo dài trên 2 tuần.
- Suy giảm nghiêm trọng học tập, sinh hoạt.
"Trầm cảm không phải là yếu đuối. Đừng ngại tìm kiếm sự giúp đỡ từ chuyên gia. Liệu pháp tâm lý (Liệu pháp nhận thức hành vi – CBT, Liệu pháp kích hoạt hành vi – BA, Liệu pháp tâm lý giữa các cá nhân – IPT…) và thuốc chống trầm cảm (SSRIs) có thể cải thiện trong phần lớn trường hợp.
Bên cạnh đó còn có nhiều phương pháp điều trị khác cũng chứng minh hiệu quả. Việc phát hiện sớm, can thiệp sớm giúp nâng cao hiệu quả điều trị cũng như phòng ngừa tái phát", bác sĩ Bùi Văn Lợi khuyến cáo.