Những ngày qua, ông Nguyễn Văn Toán ngụ tại 217/29/4 đường số 11, khu phố 4, phường Linh Xuân đã gửi đơn đến nhiều nơi để phản ánh, khiếu nại liên quan đến việc một phần nhà, đất của ông tại địa chỉ trên bị cưỡng chế thi hành án vào ngày 25.3.
Theo tài liệu, ngày 13.3, Chấp hành viên Chi cục Thi hành án dân sự TP Thủ Đức ký Văn bản số 1921/TB-CCTHADS về việc cưỡng chế thi hành án. Theo đó, sẽ tiến hành cưỡng chế đối với ông Đào Minh Quân (địa chỉ 217/29/4 đường số 11, phường Linh Xuân, TP Thủ Đức) bằng biện pháp cưỡng chế chuyển giao quyền sử dụng đất.
Cụ thể, buộc ông Quân có trách nhiệm tháo dỡ các công trình xây dựng trên đất và bàn giao phần đất có diện tích 140,4m2 tại các vị trí được ký hiệu (1, 2, 9, 10, 11, 17 và 19) theo Bản đồ hiện trạng vị trí – xác định ranh ngày 23.1.2018 của Trung tâm Đo đạc bản đồ (Sở Tài nguyên và Môi trường TP. Hồ Chí Minh) cho bà Phạm Thị T. (nhà kế bên). Thời gian cưỡng chế 9h ngày 25.3.2024.
Để làm rõ phản ánh của người dân về việc nhà, đất bị cưỡng chế thi hành án, PV Báo Đại biểu Nhân dân đã liên hệ qua điện thoại với Chấp hành viên, lãnh đạo Chi cục Thi hành án dân sự TP Thủ Đức nhưng chưa nhận được phản hồi.
Việc cưỡng chế thi hành án trên được thực hiện theo Bản án dân sự phúc thẩm số 1027/2018/DSPT ngày 12.11.2018 của TAND TP. Hồ Chí Minh; Quyết định giám đốc thẩm số 167/2019/DS-GĐT ngày 4.7.2019 của TAND cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh…
Tuy nhiên, vụ việc đang gây xôn xao bởi quyết định cưỡng chế là cưỡng chế đối với ông Quân nhưng thực tế nhà, đất tại địa chỉ bị cưỡng chế hiện do ông Nguyễn Văn Toán sở hữu (tổng diện tích đất hơn 428m2). Ông Toán chỉ biết vụ việc nhà, đất của mình bị cưỡng chế thi hành án vào ngày 22.3.2024, khi ông nhận được Giấy thông báo số 1238/TB-PCTĐ ngày 21.3.2024 của Điện lực Thủ Đức về việc hỗ trực lực lượng thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự nêu trên.
Trong đơn gửi đến các cơ quan chức năng, ông Toán trình bày, ông là người mua quyền sử dụng đất và căn nhà trên theo Hợp đồng công chứng số 14323-HĐ-CNQSDĐ ngày 23.4.2018 (trước 7 tháng so với Bản án phúc thẩm số 1027/2018/DSPT ngày 12.11.2018) tại Phòng Công chứng số 3 – Sở Tư pháp TP. Hồ Chí Minh, Hợp đồng thừa phát lại số 696/2018/VB-TPLQ.TĐ ngày 23.4.2018…
“Tài sản trên tôi mua hợp pháp theo Luật Công chứng 2014, trước khi bản án trên có hiệu lực 7 tháng. Thời điểm tôi mua không ai tranh chấp, ngăn chặn; kể từ khi tôi mua nhà, đất trên thì tài sản đó không còn là nhà của ông Quân. Tôi không liên quan đến bản án của ông Quân và bà T. Hiện tại, cũng chưa một cơ quan nào tuyên hủy hợp đồng mua bán của tôi và ông Quân. Việc Chi cục Thi hành án TP Thủ Đức cưỡng chế nhà, đất tôi mua hợp pháp là không đúng pháp luật và không đúng chủ thể trong bản án”, ông Toán trình bày.
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 1027/2018/DSPT ngày 12.11.2018 của TAND TP. Hồ Chí Minh về “Tranh chấp quyền sử dụng đất” thể hiện bà Phạm Thị T. là nguyên đơn, ông Đào Minh Quân là bị đơn.
Hồ sơ vụ việc thể hiện, tháng 8.2008, ông Quân bán cho chồng bà T. diện tích đất 550m2 tại địa chỉ 217/29/2, đường số 11 (sát bên khu đất bị cưỡng chế).
Đến năm 2013, vợ chồng bà T. ly hôn. Phần đất đã mua được bà T. quản lý, sử dụng và cập nhật thay đổi chủ sử dụng sang tên bà. Quá trình đo đạc thực tế đất không còn đủ diện tích 550m2. Bà T. cho rằng ông Quân đã lấn chiếm phần đất của bà để xây dựng hồ bơi…
Mãi đến năm 2017, bà T. mới khởi kiện ông Quân ra tòa, trong đó có nội dung buộc ông Quân giao trả cho bà phần đất mà ông Quân đang sử dụng có diện tích 139,2m2 (phần đang làm hồ bơi).
Bản án phúc thẩm yêu cầu ông Quân có trách nhiệm tháo dỡ các công trình trên đất và bàn giao phần đất có diện tích 140,4m2 tại các vị trí được ký hiệu (1, 2, 9, 10, 11, 17 và 19) cho bà T.
Liên quan đến tranh chấp đất tại khu vực khu phố 4, phường Linh Xuân - nơi ông Quân và bà T. sinh sống, ngày 13.11.2017, bà T. và người nhà đã có mâu thuẫn, xô xát với ông Quân. Bà T. đã ném đá trúng vào vùng mắt trái của ông Quân gây chảy máu, tỷ lệ thương tích 12%.
Ngày 20.2.2024, Viện Kiểm sát nhân dân TP Thủ Đức đã có Cáo trạng số 107/CT-VKSTP.TĐ, truy tố bà Phạm Thị T. tội cố ý gây thương tích, quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ Luật hình sự.