Xã hội

Tổng kết, đánh giá kỹ lưỡng để xác định mục tiêu phù hợp

Hà Hương lược ghi 26/06/2025 00:01

Hai chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước trong thực hiện chính sách an sinh xã hội đối với hộ nghèo, đặc biệt là đối với vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Để đạt các chương trình tiếp tục phát huy hiệu quả, các địa phương mong muốn tổng kết, đánh giá thật kỹ để xác định mục tiêu phù hợp cho giai đoạn tới, có tính đến khó khăn đặc thù.

Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa Nguyễn Doãn Anh: Phát huy nội lực của Nhân dân

s1(1).jpg

Thanh Hóa có diện tích trên 11.000km2, dân số khoảng 4,3 triệu người, trong đó dân số khu vực nông thôn chiếm 82%. Toàn tỉnh có 26 huyện, thị, thành phố; 547 xã, phường, thị trấn và 3.326 thôn, bản, tổ dân phố hoạt động; đặc biệt có 11 huyện miền núi với 166 xã và khoảng 75% số hộ nghèo, cận nghèo của tỉnh đang sinh sống trên 11 huyện miền núi.

Tại thời điểm xây dựng nông thôn mới năm 2010, đời sống người nông dân, nông thôn của Thanh Hóa còn rất nhiều khó khăn, thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn mới đạt được 8-9 triệu đồng/đầu người/năm, tỉ lệ hộ nghèo khu vực nông thôn chiếm 26,96%. Đến năm 2024, thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn là 60,86 triệu đồng, tăng 1,44 lần so với năm 2020, tỉ lệ hộ nghèo khu vực nông thôn còn 4,76%, bình quân hằng năm giảm 1,02%. Hiện nay hộ nghèo, cận nghèo của tỉnh còn 2,02%, tương ứng 20.660 hộ.

15/26 đơn vị cấp huyện đạt chuẩn và hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới, bằng 58% so với mục tiêu; 374/547 xã, đạt 69%, trong đó có 831 thôn bản miền núi đạt chuẩn nông thôn mới, xóa trắng xã nông thôn mới trên địa bàn huyện Mường Lát, 4 huyện và 125 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao; 33 xã, 629 thôn bản đạt nông thôn mới kiểu mẫu. Đến thời điểm hiện nay toàn tỉnh có 645 sản phẩm OCOP, trong đó có 2 sản phẩm 5 sao.

Để có những kết quả trên, tỉnh đã ban hành đầy đủ, cụ thể hóa hệ thống văn bản một cách đồng bộ, đặc biệt là hằng năm xây dựng và bổ sung các kế hoạch, chỉ tiêu cụ thể cho từng địa phương. Tập trung xây dựng cơ chế chính sách hỗ trợ đồng bộ, phù hợp, đặc biệt là phát huy nội lực, huy động nguồn lực trong Nhân dân, tiêu biểu như việc hiến đất của Nhân dân để xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông, đường làng, ngõ xóm, các công trình thủy lợi. Tổng diện tích người dân đã hiến 198ha, trong đó nổi bật huyện Triệu Sơn, 21.674 hộ đã hiến 87ha, tính ra số nguồn kinh phí khoảng trên 4.000 tỷ đồng. Nguồn lực huy động từ cộng đồng dân cư, các thành phần kinh tế chiếm khoảng 70% tổng nguồn lực đầu tư và hỗ trợ chương trình xây dựng nông thôn mới...

Đến nay có thể khẳng định hai chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững đã góp phần rất quan trọng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân nông thôn. Bộ mặt nông thôn có nhiều khởi sắc, kết cấu hạ tầng nông thôn được đầu tư đồng bộ, khang trang, môi trường, cảnh quan nông thôn ngày càng sáng - xanh - sạch - đẹp; đời sống văn hóa, tinh thần người dân nông thôn được nâng lên, nhiều giá trị văn hóa truyền thống được bảo tồn và phát huy tốt.

Bí thư Tỉnh ủy Hà Giang Hầu A Lềnh: Hỗ trợ các địa phương chưa thể tự cân đối nguồn lực

s2(1).jpg

Chúng tôi rất đồng tình với quan điểm chỉ đạo của Trung ương, đặc biệt là của Thủ tướng Chính phủ và các cơ quan chủ trì ở Trung ương, về việc tổng kết giai đoạn này cần phải đánh giá rất kỹ càng, tích hợp các chương trình mục tiêu quốc gia thành một chương trình mục tiêu chung nằm trong tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, gắn với mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIV và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ các cấp ở địa phương. Chúng tôi đang chỉ đạo tích hợp các nội dung này vào phần an sinh xã hội ở địa phương. Chúng tôi rất mong muốn Ban Chỉ đạo Trung ương, các cơ quan trung ương sớm chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương tổng kết, đánh giá thật kỹ để xác định các mục tiêu.

Trong giai đoạn mới, chắc chắn cơ chế phân bổ nguồn lực sẽ theo hướng đẩy mạnh phân cấp cho địa phương. Chúng tôi rất đồng tình với quan điểm đó, song cũng mong muốn đối với các địa phương khó khăn, ví dụ như địa phương chưa thể tự cân đối nguồn lực, Trung ương tiếp tục có kinh phí hỗ trợ trong một giai đoạn nhất định để thực hiện các mục tiêu của chương trình ở những địa phương này, đặc biệt là đối với hạ tầng chiến lược, như giao thông, điện, internet…

Nếu Quốc hội thông qua chương trình mục tiêu quốc gia cho giai đoạn tới sớm hơn, sẽ phù hợp hơn với các mục tiêu phát triển trong 5 năm tới, để các địa phương chủ động, vừa tích hợp ngay vào nghị quyết Đại hội Đảng bộ cấp tỉnh và kế hoạch triển khai trong giai đoạn đầu nhiệm kỳ.

Quyền Chủ tịch UBND tỉnh Đắk Lắk Nguyễn Thiên Văn: Bảo đảm công bằng giữa các vùng, địa phương

Giai đoạn 2021 - 2025, Đắk Lắk đều đạt và vượt chỉ tiêu đặt ra về xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững. Tuy nhiên, so với bình quân chung của khu vực Tây Nguyên cũng như cả nước, tỉ lệ số xã đạt chuẩn nông thôn mới của Đắk Lắk vẫn còn thấp, đạt 54,3%.

Về công tác giảm nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều, tỉ lệ hộ nghèo toàn tỉnh giảm hơn 2,14%/năm, từ 12,79% cuối năm 2021 đến nay còn 6,38%. Đặc biệt, tỉ lệ hộ nghèo vùng đồng bào dân tộc thiểu số giảm bình quân 4,34%, từ 26,74% cuối năm 2021 xuống còn 13,71% cuối năm 2024. Trong đó, tỉ lệ hộ nghèo tại các huyện nghèo giảm hơn 5,06%, đều đạt và vượt các chỉ tiêu Nghị quyết đề ra.

Quyền Chủ tịch UBND tỉnh Đắk Lắk Nguyễn Thiên Văn
Quyền Chủ tịch UBND tỉnh Đắk Lắk Nguyễn Thiên Văn phát biểu tại hội nghị. Nguồn: Báo Đắk Lắk

Tuy nhiên, Đắk Lắk có rất nhiều khó khăn, trong đó có 2 khó khăn chính. Thứ nhất, Đắk Lắk là tỉnh miền núi, diện tích rộng và có 54 xã thuộc vùng III, nên việc đạt tiêu chí về xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn rất khó thực hiện. Đặc biệt, tỉnh có hơn 50% đường giao thông nông thôn chưa được cứng hóa trong tổng số 16.000km đường giao thông các loại. Ngoài ra, tỉ lệ xã chưa đạt chuẩn nông thôn mới còn cao, chiếm 45,6%, đều là những xã có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn nên cần nguồn đầu tư rất lớn.

Thứ hai, tỉ lệ hộ nghèo nói chung và tỉ lệ hộ nghèo trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh hiện nay vẫn còn cao so với mặt bằng chung các tỉnh Tây Nguyên. Đến cuối năm 2024, tỉ lệ hộ nghèo còn 6,38%, tỉ lệ hộ nghèo vùng dân tộc thiểu số còn 13,71%.

Sau khi thực hiện sắp xếp, sáp nhập đơn vị hành chính cấp xã, những thách thức này càng lớn, đòi hỏi nỗ lực hết sức của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động, cùng với sự đồng tình ủng hộ của cộng đồng các dân tộc tỉnh Đắk Lắk, sự chung tay hỗ trợ của các doanh nghiệp, của Trung ương.

Trong giai đoạn tới, Đắk Lắk phấn đấu số xã đạt chuẩn nông thôn mới sau sắp xếp, sáp nhập đạt 68/88 xã, đạt tỉ lệ 77%. Số xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao là 13/68 xã, đạt tỉ lệ 19%. Và số xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu là 7/68 xã, đạt 10,3%. Tỉ lệ nghèo giảm bình quân là 2%/năm. Tỉ lệ nghèo trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số giảm bình quân 4%/năm theo chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2021-2025.

Để đạt các mục tiêu trên, bảo đảm công bằng giữa các vùng, địa phương, Đắk Lắk đề nghị Trung ương trong quá trình xem xét phân bổ vốn cho tỉnh cần tính đến các yếu tố sau: diện tích tự nhiên phủ nông thôn, bao gồm cả diện tích đất nông thôn, tổng số kilômét đường giao thông nông thôn cần đầu tư; tỉ lệ hộ nghèo, tỉ lệ hộ nghèo vùng đồng bào dân tộc thiểu số và thu nhập bình quân đầu người vùng nông thôn.

    Nổi bật
        Mới nhất
        Tổng kết, đánh giá kỹ lưỡng để xác định mục tiêu phù hợp
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO