Tọa đàm “Phòng ngừa, phát hiện và điều trị ung thư giai đoạn sớm"

ĐBND
Ảnh: Duy Thông
18/10/2016 17:20

Sáng nay, ngày 18.10.2016, Báo Đại biểu Nhân dân tổ chức chương trình Tọa đàm trực tuyến “Phòng ngừa, phát hiện và điều trị ung thư ở giai đoạn sớm”. Chương trình nhằm thông tin đến cộng đồng mức độ nguy hiểm của căn bệnh cũng như các biện pháp phòng tránh, tầm soát để phát hiện và điều trị ung thư ở giai đoạn sớm nhằm mang lại hiệu quả điều trị cao.

Chương trình Tọa đàm trực tuyến “Phòng ngừa, phát hiện và điều trị ung thư ở giai đoạn sớm” có sự tham gia của các chuyên gia đầu ngành về ung bướu, các nhà quản lý, và cơ quan giám sát thực hiện:

Ông Bùi Ngọc Chương- Ủy viên thường trực Ủy ban Về các vấn đề xã hội của Quốc hội;
PGS.TS. Lương Ngọc Khuê - Cục trưởng Cục quản lý Khám, chữa bệnh, Bộ Y tế;
PGS.TS. Trần Văn Thuấn - Giám đốc Bệnh viện K, Bộ Y tế;
PGS.TS. Trần Đình Hà - Phó Giám đốc Trung tâm Y học Hạt nhân và Ung bướu, BV Bạch Mai, Bộ Y tế;
Bác sĩ Chuyên khoa I Phạm Văn Thoãn - Trưởng khoa Kiểm định Phóng xạ, Viện U Bướu Quân đội, Cục Quân y;
DS. Thạc sỹ Nguyễn Thị Vũ Thành - Phó Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Dược phẩm GoldHealth Việt Nam.

Các chuyên gia đầu ngành về ung bướu, các nhà quản lý, và cơ quan giám sát thực hiện chụp ảnh lưu niệm tại buổi tọa đàm
Các chuyên gia đầu ngành về ung bướu, các nhà quản lý, và cơ quan giám sát thực hiện chụp ảnh lưu niệm tại buổi tọa đàm

Theo các chuyên gia hàng đầu về ung bướu chia sẻ tại Hội thảo Quốc gia phòng chống ung thư diễn ra ngày 06.10 vừa qua, toàn cầu hiện có khoảng 23 triệu người đang sống chung với căn bệnh này, trong đó mỗi năm có hơn 14 triệu người mắc mới và 8,2 triệu người tử vong.

Tại Việt Nam, số trường hợp mắc mới ung thư tăng nhanh từ 68.000 ca năm 2000 lên 126.000 ca trong năm 2010 và dự kiến sẽ vượt qua 190.000 ca vào năm 2020. Mỗi năm có hơn 70.000 người chết vì ung thư, tương ứng 205 người/ngày.

Theo số liệu này, WHO xếp Việt Nam nằm trong 50 nước thuộc tốp 2 của bản đồ ung thư (50 nước cao nhất thuộc tốp 1). Cụ thể, Việt Nam đang xếp ở vị trí 78/172 quốc gia, vùng lãnh thổ khảo sát với tỷ lệ tử vong 110/100.000 người, ngang với tỷ lệ tại Phần Lan, Somalia, Turmenistan.

Chương trình Tọa đàm trực tuyến “Phòng ngừa, phát hiện và điều trị ung thư ở giai đoạn sớm” đang được tường thuật trực tiếp trên Báo điện tử Đại biểu Nhân dân bắt đầu từ: 09h30. Trân trọng kính mời độc giả quan tâm theo dõi Tọa đàm tại đây và có thể gửi câu hỏi tham gia Tọa đàm về tòa soạn theo địa chỉ:

Email: baodientudbnd@gmail.com

Hoặc gọi theo số: 0912.413.239 – 0962.68.68.08 trong thời gian diễn ra chương trình.

Hoặc nhắn tin/comment tại fanpage của báo:https://www.facebook.com/page.daibieunhandan/?fref=ts

Các khán giả có câu trả lời tương tác với chương trình đúng và nhanh nhất sẽ được lựa chọn để nhận các phần quà của chương trình gửi tặng.

Báo Đại biểu Nhân dân trân trọng cám ơn nhãn hàng GenK STF đã đồng hành cùng chương trình!


MC: Để bắt đầu buổi tọa đàm ngày hôm nay, câu hỏi đầu tiên tôi xin được hỏi Ủy viên thường trực Ủy ban Về các vấn đề xã hội Bùi Ngọc Chương. Thưa ông, Ủy ban Về các vấn đề xã hội đánh giá như thế nào về những mặt tích cực và hạn chế mà ngành Y tế đã làm được trong thời gian qua?

UVTT Bùi Ngọc Chương: Với chức năng là một trong mười cơ quan của QH có nhiệm vụ thẩm tra, tham gia giúp QH ban hành các luật, giám sát các nghị quyết được QH thông qua liên quan đến y tế…, qua hoạt động của mình, UB đã góp phần cùng Bộ Y tế xây dựng, ban hành hệ thống pháp luật về y tế tương đối hoàn chỉnh, đồng bộ, gần đây nhất là hoàn thành trình QH thông qua Luật Dược sửa đổi, cùng với các văn bản pháp luật hiện hành trong đó có Luật Khám bệnh, chữa bệnh sắp tới cũng sẽ được chỉnh sửa, hoàn thiện sao cho phù hợp với tình hình mới. 

Ông Bùi Ngọc Chương- Ủy viên thường trực Ủy ban Về các vấn đề xã hội của QH đang trao đổi tại Tọa đàm
Ông Bùi Ngọc Chương- Ủy viên thường trực Ủy ban Về các vấn đề xã hội của QH đang trao đổi tại Tọa đàm

Qua công tác theo dõi cũng như giám sát của UB, chúng tôi nhận thấy, trong thời gian qua, nhất là những nhiệm kỳ gần đây, ngành Y tế rất nỗ lực, tích cực, chủ động trong việc đề xuất hoàn thiện hệ thống pháp luật. Những văn bản pháp luật mới như Luật Phòng, chống tác hại thuốc lá được thế giới đánh giá rất tích cực, mặc dù đây là vấn đề gai góc, vì nó liên quan đến các vấn đề về thuế, dễ tạo nên nhiều luồng ý kiến giữa các cơ quan làm chính sách với các doanh nghiệp, các đơn vị sản xuất kinh doanh. Bộ cũng đang chuẩn bị tích cực Dự luật Phòng, chống tác hại của lạm dụng rượu, bia. Đây là những văn bản pháp luật để bổ sung hoàn thiện hệ thống pháp luật về y tế, về chăm sóc sức khỏe. Trong đó có những văn bản như phòng, chống tác hại thuốc lá, hạn chế lạm dụng tác hại của rượu, bia sẽ tác động chặt chẽ với vấn đề bệnh tật trong đó có chủ đề về ung thư hôm nay. UB đánh giá Bộ rất tích cực trong việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật.

Trong chỉ đạo điều hành, quản lý, ngành Y tế cũng rất quyết tâm, quyết liệt với các vấn đề nóng của xã hội. Ngành đã tạo nên chuyển biến, có những đột phá về đầu tư trang thiết thị, nâng cấp cơ sở KCB cho các bệnh viện lớn, các bệnh viện tuyến huyện, tạo điều kiện tăng giường bệnh, tăng cơ sở vật chất, tăng nhu cầu về chăm sóc, bảo vệ sức khỏe cho người dân. Bộ cũng đã cùng với các ngành khác thực hiện chủ trương BHYT, tiến tới BHYT toàn dân, ngành Y tế là đơn vị được giao quản lý Nhà nước về lĩnh vực này đã rất chủ động triển khai thực hiện. BHYT đang có những bước phát triển rất tốt. Đây là bước tạo cơ sở vững chắc cho công tác KCB của người dân. 

Về một vài điểm chúng tôi cho rằng cần quan tâm trong quá trình theo dõi: Trong điều kiện đất nước ta còn khó khăn, ngân sách đầu tư cho ngành Y tế còn hạn chế so với nhu cầu của ngành. Đó cũng là một phần khiến những mong muốn, kế hoạch của ngành đề ra có phần khó thực hiện như vấn đề quá tải bệnh viện, nằm ghép giường, do mất cân đối về khả năng cung ứng cũng như nhu cầu KCB của người dân. Bệnh viện cũng rất khó khăn về kinh phí, trang thiết bị không đầy đủ, bác sỹ làm việc với cường độ lớn. Đây là vấn đề chung của toàn xã hội. Ủy ban rất thấu hiểu và chia sẻ với ngành. Ủy ban Về các vấn đề xã hội luôn đồng hành với ngành để đề xuất những chủ trương đầu tư nguồn lực tài chính cũng như con người, các chương trình mục tiêu…

MC: Để có đánh giá cụ thể hơn, xin được hỏi PGS.TS Lương Ngọc Khuê Cục trưởng Cục Quản lý Khám, Chữa bệnh, Bộ Y tế. Thưa ông, Bộ Y tế đã có những quy định gì về việc ban hành Hướng dẫn Quy trình kỹ thuật khám bệnh, chữa bệnh chuyên ngành Ung bướu?

PGS.TS Lương Ngọc Khuê: Trước hết, cho phép tôi thay mặt lãnh đạo Cục Quản lý Khám, Chữa bệnh, Bộ Y tế cảm ơn Báo Đại biểu Nhân dân đã tổ chức Tọa đàm trực tuyến “Phòng ngừa, phát hiện và điều trị ung thư ở giai đoạn sớm” để chúng tôi được cùng các giáo sư đầu ngành cùng chia sẻ về công tác khám, chữa bệnh hiện nay.

PGS.TS. Lương Ngọc Khuê - Cục trưởng Cục quản lý Khám, chữa bệnh, Bộ Y tế trao đổi tại Tọa đàm
PGS.TS. Lương Ngọc Khuê - Cục trưởng Cục quản lý Khám, chữa bệnh, Bộ Y tế trao đổi tại Tọa đàm

Đất nước ta rất quan tâm đến chăm sóc sức khỏe của người dân. Theo các nghị quyết, đây là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn xã hội và ngành Y tế là nòng cốt. Công tác chăm sóc sức khỏe người dân của chúng ta thời gian qua đạt nhiều thành tựu, trong đó, nổi bật là tuổi thọ bình quân của người dân Việt Nam hiện nay là 72,4 tuổi đối với nam, 73,5 tuổi đối với nữ. So với năm 1960, tuổi thọ bình quân của dân số nước ta chỉ là 60, 65 tuổi, mới thấy sự tiến bộ vượt bậc của sự phát triển kinh tế- xã hội và công sức của các thế hệ thầy thuốc Việt Nam. Sau 30 năm đổi mới, đất nước ta đạt được nhiều thành tựu, tuy nhiên, đầu tư cho công tác y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân còn hạn chế. So với các nước cùng trình độ phát triển trong khu vực và thế giới, Việt Nam được đánh giá là một trong những nước có hệ thống y tế khá hoàn chỉnh và tốt.

Chúng ta đã đối mặt với thách thức của mô hình bệnh tật kép, đó là các bệnh lây nhiễm rất thời sự hiện nay như bệnh do virut Zika, sốt xuất huyết, một số bệnh tưởng như đã lãng quên như chân tay miệng, tiêu chảy cấp, rồi những bệnh truyền nhiễm như HIV, lang, phong... vẫn còn trong cộng đồng. Và đặc biệt là mô hình bệnh tật của một nước phát triển, đó là bệnh tim mạch, ung thư, tiểu đường, chấn thương tai nạn thương tích, béo phì, tâm thần… hay các vấn đề liên quan đến lối sống, rối loạn chuyển hóa...

Về chuyên ngành ung thư, Bộ Y tế đã có các văn bản hướng dẫn triển khai các Luật Khám bệnh, Chữa bệnh, Phòng, chống tác hại của thuốc lá, Hiến ghép mô tạng, Truyền nhiễm... Bộ Y tế thành lập 28 Hội đồng giáo sư, xây dựng được các phác đồ hướng dẫn điều trị ung thư. Hiện nay, chúng ta đã xây dựng được 4 phương pháp chính điều trị ung thư gồm phẫu trị, xạ trị, điều trị chăm sóc giảm nhẹ... Trên thế giới, đang có thêm các phương pháp mới về miễn dịch và điều trị đích. Trong các quy trình này, chúng ta đã có các quy trình ngang tầm các nước phát triển như mổ robot, mổ nội soi. Ngoài ra, các quy trình chuẩn đoán, phát hiện sớm, sàng lọc ung (ung thư vú, ung thư cổ tử cung) cũng đã được xây dựng. Chúng ta đã có 5 trung tâm về chuẩn đoán và phát hiện sớm ung thư bằng công nghệ PET/CT.

Hiện nay, Bộ Y tế cũng đã có quy hoạch mạng lưới phòng, chống bệnh ung thư ở Việt Nam; ban hành kế hoạch hành động quốc gia về phòng, chống ung thư; Quy hoạch các cơ sở xạ trị cho phòng, chống ung thư ở Việt Nam. Tới đây, sẽ chia ra 4 trung tâm lớn là Hà Nội, Huế, TP Hồ Chí Minh, Cần Thơ điều trị ung thư; tất cả bệnh viện tuyến tỉnh đều có các khoa ung thư để thực hiện các kỹ thuật điều trị ung thư, các quy trình phòng, chống ung thư. Ngoài ra, các trường đại học lớn đều thành lập khoa ung thư nhằm giúp cho việc đào tạo cán bộ. Bên cạnh đó, nhằm giảm tải cho bệnh viện tuyến trung ương, nâng cao trình độ tuyến dưới, chúng tôi đang triển khai thực hiện đề án các bệnh viện vệ tinh.

Toàn cảnh Tọa đàm
Toàn cảnh Tọa đàm

MC: Những quy trình đó đã được áp dụng đồng bộ tại các cơ sở khám, chữa bệnh trên cả nước hay chưa, thưa PGS.TS Lương Ngọc Khuê?

PGS.TS Lương Ngọc Khuê: Tôi cho rằng đây là một câu hỏi rất hay. Ở Việt Nam có các tuyến chuyên môn về y tế. Ở tuyến trung ương là nơi ứng dụng tất cả các kỹ thuật tiên tiến, hiện đại trong điều trị ung thư. Rất nhiều bệnh nhân khi ra nước ngoài như Singapore, Nhật Bản, Mỹ, Đức.. chuẩn đoán rồi lại về Việt Nam điều trị, kể cả các đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà nước, các doanh nhân. Có những trường hợp, đi thăm khám nước ngoài nhiều khi về Việt Nam, các bác sĩ còn chuẩn đoán và mổ, phẫu thuật nhiều hơn, kỹ càng hơn.

Chúng ta đều biết, ung thư là một bệnh hết sức phức tạp, đòi hỏi có chuyên môn, kỹ thuật cao và trang thiết bị hiện đại, do đó, cần phải từng bước để phổ biến các quy trình điều trị. Tại các khoa ung thư ở bệnh viện tuyến tỉnh, một số khoa có điều trị xạ trị, có nơi chưa có. Chúng ta áp dụng theo các hướng dẫn theo các tuyến chuyên môn kỹ thuật mà Bộ Y tế đã ban hành.

MC: Thưa PGS.TS Trần Văn Thuấn, theo thông tin mới nhất về ung thư thì mỗi năm có hơn 70.000 người chết vì ung thư, tương ứng 205 người/ngày. Xin chuyên gia cho biết, nguyên nhân nào khiến người Việt đang “chết mòn” vì ung thư?

PGS.TS Trần Văn Thuấn: Ung thư là vấn đề lớn, mỗi năm có 14,1 triệu người mới mắc và gần 2 triệu tử vong do ung thư, tại Việt Nam theo thống kê của Bộ Y tế và ngành ung thư, mỗi năm có khoảng 126 nghìn ca mắc mới và trên 94 nghìn trường hợp tử vong do ung thư.

MC: Từ những con số thống kê về số ca mắc ung thư rất lớn như vậy, khiến nhiều người dân rất lo ngại. Thưa PGS.TS Trần Văn Thuấn, rất nhiều độc giả muốn biết, đâu là nguyên nhân chính dẫn đến bệnh ung thư, độ tuổi nào dễ mắc và các phòng và điều trị như thế nào?

PGS.TS Trần Văn Thuấn: Có rất nhiều nguyên do dẫn đến ung thư, trong đó, tuổi thọ bình quân tăng lên lên. Theo thống kê của Bộ Y tế thì tuổi trung bình của Việt Nam lên tới 73,3 tuổi, tuổi thọ càng tăng thì nguy cơ phơi nhiễm ngày càng nhiều. Ngoài ra, trên 80% nguyên nhân gây ra bệnh ung thư do môi trường bên ngoài và trên 10% còn lại là do yếu tố bên trong là do di truyền và nội tiết. 

PGS.TS. Trần Văn Thuấn - Giám đốc Bệnh viện K, Bộ Y tế trao đổi tại Tọa đàm
PGS.TS. Trần Văn Thuấn - Giám đốc Bệnh viện K, Bộ Y tế trao đổi tại Tọa đàm

Về bên ngoài, chủ yếu, là do hút thuốc lá, riêng hút thuốc lá gây ra 30% các bệnh ung thư ở người trong đó là các bệnh về ung thư phổi. Ung thư phổi chủ yếu do 90% do hút thuốc lá. Ngoài ra, thuốc lá còn gây ra bệnh ung thư khoang miệng, thực quản, ung thứ vú và tử cung… Hút huốc lá là do cả hút thuốc lá chủ động và bị động. Chủ động là do chúng ta tự hút còn bị động là do ngửi hơi thuốc. Theo thống kê, dòng khói phụ thì nhiều chất độc, nhiều chất gây ung thư hơn khói thuốc chính. Tính tổng thể thì thuốc lá có tới hơn 4.000 chất khác nhau, trong đó có trên 7 chất gây ung thư. 

Thứ hai là, do dinh dưỡng không an toàn, không hợp lý. Không an toàn là do dùng thực phẩm được bảo quản bởi các chất gây ung thư hoặc các thực phẩm để lâu ngày sản sinh ra chất gây ung thư; dinh dưỡng không hợp lý nghĩa là do chế độ dinh dưỡng không hợp lý giữa các thành phần trong khẩu phần ăn như: trong khẩu phần ăn có quá nhiều chất béo, ít hoa quả, rau xanh thì gây ra một số bệnh ung thư trong đó có ung thư đường tiêu hóa, đại tràng, dạ dày… Nếu như chế độ hợp lý thì trong khẩu phần ăn nhiều hoa quả, rau xanh, hàm lượng đạm vừa phải, thay mỡ động vật bằng dầu sẽ hạn chế, phòng ngừa ung thư.

Các yếu tố do chế độ dinh dưỡng không an toàn, hợp lý có thể gây ra ung thư chiếm tới trên 30%.

Ngoài ra, có thể kể đến một số yếu tố khác, đó là do môi trường bên ngoài, đó làm việc trong môi trường độc hại như môi trường có X quang, làm việc trong môi trường có thuốc trừ sâu, diệt cỏ, dioxin… Bên cạnh đó, có yếu tố nhiễm trùng chiếm đáng kể, trong đó nhiễm virus viêm gan B dẫn tới viêm gan B, xơ gan, ung thư gan… Và trên 10% do di truyền và nội tiết. Ví dụ, gia đình có chị và em gái bị ung thư vú đặc biệt trường hợp có đột biết gen ung thư vú thì có nguy cơ ung thư vú cao hơn 6 lần so với người bình thường hay phụ nữ dùng thuốc tránh thai lâu ngày trên 10 năm thì cũng có nguy cơ ung thư vú so với người bình thường…

MC: Vậy làm thế nào để phát hiện ung thư sớm? Ở tuổi nào thì nên quan tâm đến việc mình có bị ung thư hay không, thưa PGS.TS Trần Văn Thuấn?

PGS.TS Trần Văn Thuấn: Thông thường tuổi càng cao thì nguy cơ mắc ung thư càng cao. Có khoảng 1,6%, trẻ em bị mắc ung thư trong tổng số các bệnh mắc bệnh ung thư ở người. Tuy nhiên, có thể khẳng định, ung thư là bệnh chúng ta có thể phòng ngừa, chữa khỏi nếu được phát hiện sớm, điều trị kịp thời và đúng phương pháp.

Để sàng lọc, phát hiện sớm ung thư có nhiều biện pháp và tùy thuộc vào từng người bệnh. Để sàng lọc thì chúng ta căn cứ vào một số tiêu chuẩn.

Bệnh ung thư đó là bệnh phổ biến, có xét nghiệm (test) sàng lọc đặc hiệu, test đặc hiệu đó phải dễ thực hiện với chi phí hợp lý. Nhiều nước phát triển đã tiến hành sàng lọc nhiều loại ung thư phổ biến. Nhưng ở Việt Nam do kinh phí hạn chế nên mới thí điểm sàng lọc phát hiện sớm ở một số bệnh: ung thư vú... Thực tế có thể sàng lọc cho nhiều ung thư: ung thư vú ở tuổi 40. Chị em có thể nên tự phát hiện sớm bệnh của mình. Bên cạnh đó nên đi khám định kỳ để phát hiện sớm ung thư vú. Đối với tử cung thì có thể khám sàng lọc khi bắt đầu có quan hệ tình dục, có thể khám lâm sàng, soi, xét nghiệm… để tìm tế bào ung thư.  

Đối với tuyến giáp có thể siêu âm cổ xem có khối u hay không. Đối với ung thư đại, trực tràng, thì xét nghiệm tiềm ẩn trong phân, xét nghiệm máu. Vòm miệng tự khám bằng cách soi gương, khám bác sỹ…

Nhìn chung, ung thư được phát hiện càng sớm thì chữa trị càng hiệu quả, chi phí điều trị càng ít. Khi có các triệu chứng thì người bệnh nên đến cơ sở y tế khám, ví dụ có khối vu bất thường ở ngực, ra máu bất thường ở âm đạo, ho kéo dài, ù tai, nhức đầu, thay đổi hình thái, kích thước của nốt ruồi,… nếu có dấu hiệu này chưa hẳn là có ung thư nhưng nên đến các cơ sở y tế để khám để phát hiện sớm và hoàn toàn có thể chữa khỏi bệnh.

MC: Thưa PGS.TS Trần Đình Hà, ai cũng có tế bào ung thư. Vậy những người như thế nào thì dễ mắc bệnh ung thư? Và theo ghi nhận của Bệnh viện Bạch Mai, tỷ lệ số ca mắc ung thư loại ung nào là phổ biến nhất, có thể nhận biết từng loại bệnh ung thư được không và cách phòng ngừa như thế nào?

PGS.TS Trần Đình Hà: Chúng ta biết ung thu là một trong những gánh nặng toàn cầu và Việt Nam là một trong những nước có tỷ lệ mắc ung thư hàng năm rất cao. Về nguyên nhân sinh ra bệnh ung thư thì có các yếu tố bên trong tố chất thuộc về hệ gene về các tính chất di truyền của mỗi cá thể. Ngoài ra còn bị tác động bởi các yếu tố bên ngoài, cụ thể như những yếu tố về môi trường, thuốc lá, thực phẩm… 

PGS.TS. Trần Đình Hà - Phó Giám đốc Trung tâm Y học Hạt nhân và Ung bướu, BV Bạch Mai, Bộ Y tế trao đổi tại Tọa đàm
PGS.TS. Trần Đình Hà - Phó Giám đốc Trung tâm Y học Hạt nhân và Ung bướu, BV Bạch Mai, Bộ Y tế trao đổi tại Tọa đàm

Vậy những người như thế nào thì dễ mắc bệnh ung thư, cũng tùy thuộc vào nhiều yếu tố.Thứ nhất là về yếu tố cơ địa. Ung thư không có tính di truyền nhưng có một số loại ung thư có yếu tố gia đình. Ví dụ như ung thư vú, ung thư tuyến giáp, ung thư đại trực tràng. Ung thư có yếu tố gia đình có nghĩa là trong gia đình mẹ bị ung thư vú thì con gái có khả năng bị ung thư vú… Đây là những yếu tố bên trong, nó không di truyền nhưng có tính chất thuộc về cơ địa, những người nhạy cảm. 

Thứ hai là những người làm việc trong môi trường độc hại, có những khí, chất thải là những tác nhân có thể là vật lý cũng có thể là tác nhân hóa học, gây ra các bệnh ung thư. Có nghĩa ở đây có yếu tố nhề nghiệp. 

Thứ ba là những người sử dụng các yếu tố hàng ngày trong sinh hoạt có thể là nguyên nhân gây ra ung thư như thuốc lá, uống rượu, ăn uống các thực phẩm lên men, bị mốc, thực phẩm có chất bảo quản hoặc có hóa chất nhuộm màu... 

Ngoài ra, một số yếu tố khác liên quan đến dịch tễ ví dụ như virus HPV là một trong những tác nhân gây ra bệnh ung thư cổ tử cung của nữ giới, ở những khu vực, vùng địa lý lưu hành virus này nhiều thì tỷ lệ mắc bệnh ung thư đó cao hơn. 

Tóm lại, những tác nhân gây ra bệnh ung thư có liên quan đến những đối tượng trực tiếp. Ngoài ra, tuổi càng cao thì nguy cơ mắc bệnh càng cao, do những biến đổi về cơ địa của bệnh nhân theo tuổi tác, khả năng chống đỡ của cơ thể kém đi, hệ miễn dịch của cơ thể cũng kém đi.

MC: Để trả lời câu hỏi những đối tượng nào dễ mắc bệnh ung thư thì có những yếu tố về cơ địa, gia đình, môi trường, về thói quen sinh hoạt, môi trường làm việc, tuổi tác và những dịch tễ y học liên quan đến nhưng loại virus có thể gây ra ung thư. Xin bác sĩ hướng dẫn chi tiết và cụ thể nhất cách một người muốn tầm soát ung thư (kể cả chưa có dấu hiệu gì rõ rệt) thì khi vào Bệnh viện Bạch Mai phải vào phòng/ban nào, thủ tục như thế nào?

PGS.TS Trần Đình Hà: Để phòng chống ung thư, về mặt đường lối có 3 bước, đó là: phòng, sàng lọc phát hiện sớm và khi phát hiện rồi thì có những liệu pháp điều trị tích cực để đưa lại hiệu quả tốt nhất. 

Để phòng bênh ung thư thì phải tránh các tác nhân sinh ra ung thư như không hút thuốc, không ăn các thực phẩm có nguy cơ gây ung thư như bảo quản do hóa chất, nhuộm màu… tích cực điều trị những bệnh từ cấp tính chuyển sang mãn tính và có thể tiến triển tới ung thư. Ví dụ khi đã bị viêm gan virus B, C thì phải điều trị tích cực để phòng việc dẫn tới ung thư. Hai là để góp phần cho công tác phòng ung thư thì phải sàng lọc sớm. Việc sàng lọc sớm với đối tượng như thế nào và tiến hành vào lúc nào đã có hướng dẫn cụ thể với những bệnh cụ thể. 

Ở nước ta hiện nay, các bệnh có thể sàng lọc để phát hiện sớm ung thư như vú, ung thư đại trực tràng, ung thư tuyến giáp, ung thư cổ tử cung. Khi phát hiện sớm thì phải điều trị. Giúp việc phòng, tránh, phát hiện sớm thì phải biết các triệu chứng liên quan đến ung thư như sút cân, sốt kéo dài, ho kéo dài, triệu chứng về đường tiêu hóa, nổi u hạch…. Đây là những triệu chứng không bình thường, phải khám ngay để phát hiện sớm.

Khi đã phát hiện ra ung thư thì phải chữa, vì thực tế tỷ lệ mắc ung thư ở một số bệnh có tỷ lệ ngày càng tăng, nhưng ngược lại tỷ lệ tử vong lại có xu hướng giảm vì được phát hiện và điều trị sớm với các liệu pháp điều trị tích cực và hiện đại. Ví dụ như ung thư vú ở nước ta có tỷ lệ mắc hàng đầu trong các loại ung thư nhưng tỷ lệ tử vong ở ung thư vú thì không phải là hàng đầu. 

Đến đâu để khám và phát hiện thì trên các phương tiện thông tin đại chúng cũng như Bệnh viện Bạch Mai đều có hướng dẫn, điện thoại đường dây nóng có thể hỏi truy cập để có thông tin ngay. Mọi cửa đều rộng mở cho tất cả người dân có nhu cầu, nguyện vọng khám chữa bệnh, đặc biệt là khám để phát hiện sớm ung thư. Bệnh viện Bạch Mai có Trung tâm y học hạt nhân về ung bướu- đây là đơn vị khá lớn có đầy đủ phương tiện để phát hiện và điều trị các bệnh ung thư. Và tại phòng khám, khoa khám bệnh theo yêu cầu của bệnh viện cũng đều có các phòng khám của chuyên khoa ung bướu.

MC: Thưa bác sĩ Phạm Văn Thoãn, Trưởng khoa Kiểm định Phóng xạ, Viện Y học Phóng xạ và U bướu Quân đội, Viện U bướu Quân đội có khám sàng lọc và tầm soát ung thư không? Và thủ tục chi phí ra sao, thưa bác sĩ?

Bác sĩ Phạm Văn Thoãn: Tôi là nhà y học hạt nhân, nghĩa là dùng y học hạt nhân và phóng xạ để điều trị ung thư. Hai chuyện này cũng có liên quan đến nhau. Tôi là Chủ nhiệm Khoa Kiểm định Phóng xạ, ở đây chúng tôi kiểm định liều lượng để cho bệnh nhân ở các máy xem liều lượng đấy có an toàn cho người bệnh, nhân viên y tế không, các máy có bảo đảm an toàn không? Ngoài ra chúng tôi còn có chức năng ứng phó với các sự cố phóng xạ. Thủ tướng Chính phủ cũng giao có một trung tâm sự cố của quốc gia nằm ở chỗ chúng tôi thì chúng có khoa kiểm định phóng xạ là như vậy.

Bác sĩ Chuyên khoa I Phạm Văn Thoãn - Trưởng khoa Kiểm định Phóng xạ,Viện U Bướu Quân đội, Cục Quân y trao đổi tại Tọa đàm
Bác sĩ Chuyên khoa I Phạm Văn Thoãn - Trưởng khoa Kiểm định Phóng xạ,Viện U Bướu Quân đội, Cục Quân y trao đổi tại Tọa đàm

Trước đây chúng tôi cũng tham gia vào điều trị ung thư, chúng tôi phải ra Bệnh viện Bạch Mai, Bệnh viện K để học và sau đó về triển khai. Viện của chúng tôi là viện của Quân đội cũng có khám và sàn lọc ung thư và chi phí khám sàng lọc thì cũng không cao, nhưng điều trị thì mới lớn. Khám sàng lọc chỉ mất mấy triệu thôi thế nhưng để ung thư rồi thì điều trị có thể mất vài chục triệu, thậm chí là hàng tỷ.

Viện tôi là một viện đặc thù của quân đội, ít người biết đến. Trước đây là Viện Y học dân tộc (Y học cổ truyền quân đội). Sau đó chúng tôi tiếp quản và xây dựng một viện Y học phóng xạ và ung bướu Quân đội – Chủ yếu chỉ về Y học phóng xạ, về mặt ung bướu thì “yếu” hơn Bạch Mai và Viện K rất nhiều và học tập ở đấy rất nhiều. Nhưng chúng tôi cũng có thế mạnh về phóng xạ, có các máy về gia tốc, có các dược chất phóng xạ và điều trị một số bệnh ung bướu nói chung và ung thư nói riêng bằng các dược chất phóng xạ.

MC: Thưa PGS.TS Trần Đình Hà, công nghệ y học hạt nhân ở Việt Nam hiện nay có thể điều trị được những bệnh ung thư nào và điều trị đến mức độ nào? Có bệnh ung thư nào có thể điều trị khỏi hoàn toàn từ công nghệ này không?

PGS.TS Trần Đình Hà: Về mặt chủ chương chúng ta đã có quyết định của Thủ tướng Chính phủ và quyết định của Bộ Y tế về việc quy hoạch và phát triển ứng dụng năng lượng nguyên tử trong ngành y tế. Y học hạt nhân ở nước ta là cũng đã có khá lâu, đây là một kỹ thuật mới, một chuyên ngành hiện đại, cơ sở đầu tiên của nó là đơn vị nghiên cứu đồng vị phóng xạ trong y học của Bộ Y tế thành lập năm 1970. Năm 1979 thì thành lập Khoa Y học hạt nhân và Điều trị ung bướu sau đó phát triển dần lên, bây giờ cơ sở chúng tôi là cơ sở đầu ngành về y học hạt nhân của Bộ Y tế, mở rộng thành Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu Bệnh viện Bạch Mai.

Để nói về các ứng dụng của y học hạt nhân trong ung thư, đây là một lĩnh vực vô cùng rộng lớn và có những những đóng góp rất quan trọng. Hầu hết các chỉ định của y học hạt nhân bây giờ trên 80% là cho chuyên ngành ung thư, gồm có các kỹ thuật về chuẩn đoán và điều trị. Về các kỹ thuật chuẩn đoán, chúng tôi có các xét nghiệm gọi là (invitoal) là những xét nghiệm không đưa đồng vị phóng xạ vào cơ thể con người, là định lượng phóng xạ miễn dịch học để định lượng các chất chỉ điểm khối u trong máu, trong dịch của người bệnh. Ví dụ ung thư tuyến giáp chúng tôi định lượng taybonabilin, định lượng CIA, PSA trong ung thư tuyến tiền liệt (yên), đại tràng. Kỹ thuật thứ nhất là định lượng phóng xạ miễn dịch học các chất chỉ điểm ung thư ở trong máu để chuẩn đoán và để theo dõi quá trình điều trị và tái phát.

Thứ hai là các kỹ thuật đo thăm dò chức năng, chụp hình phóng xạ. Về thăm dò chức năng, chúng tôi sẽ đưa vào cơ thể người bệnh có thể qua đường uống, qua đường tiêm truyền tĩnh mạch một đồng vị phóng xạ và nó gắn đặc hiệu vào một khối u hoặc là nó vào tập trung theo cơ chế máu vào khối u, khi đó chúng tôi sẽ đo đạt để phát hiện sự tập trung của thuốc đó vào tổ chức cơ quan nhằm phát hiện khối u. Hoặc chúng tôi sẽ chụp hình, gọi là kỹ thuật chụp hình y học hạt nhân, bao gồm các kỹ thuật ngày nay được ứng dụng nhiều lần là SPECT-CT, PET-CT.

Như GS Khuê cũng đã nói, khi chúng ta phát triển được những kỹ thuật này, PET-CT mới có từ năm 2008, các ứng dụng của nó bao gồm: một là chuẩn đoán phát hiện các khối u, hai là đánh giá giai đoạn. Trong ung thư, khi chúng ta chuẩn đoán xác định rồi, dựa vào mô bệnh học và các yếu tố sau đó chúng ta phải đánh giá chính xác giai đoạn của bệnh mới đưa ra quyết định điều trị cho bệnh nhân đúng được. Và kỹ thuật ấy còn giúp cho đánh giá điều trị, xạ trị, hóa trị đáp ứng đến đâu; sau phẫu thuật còn u hay không...? Ngoài ra, bệnh đã chữa khỏi rồi, nhưng định kỳ bệnh nhân vẫn phải đến khám lại và PET - CT giúp cho việc phát hiện tổn thương tái phát rất lớn.

Về lĩnh vực điều trị, chúng ta biết, hiện nay từ những kỹ thuật ban đầu như chúng ta sử dụng các đồng vị phóng xạ dạng uống, dạng tiêm để điều trị bệnh, bây giờ có những kỹ thuật rất mới mà Bệnh viện Bạch Mai đang triển khai điều trị ung thư đó là kỹ thuật xạ trị trong chọn lọc. Đây là kỹ thuật điều trị y học hạt nhân, chúng tôi bơm các hạt nhi cầu phóng xạ qua mạch máu vào khối u gan điều trị ung thư gan. Rồi chúng tôi cấy hạt phóng xạ vào khối u điều trị cho các bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt đạt kết quả rất tốt. Hiện nay Bệnh viện Bạch Mai cũng đang kết hợp với các đơn vị liên quan để nghiên cứu triển khai kỹ thuật điều trị phóng xạ miễn dịch radioimmunoassay, tức là chúng ta có các kháng thể đơn dòng đặc hiệu với các kháng nguyên trên các tế bào ung thư, chúng tôi gắn đồng vị phóng xạ vào các kháng thể đơn dòng đó và đưa đồng vị phóng xạ vào tận khối u. Rất đặc trị, rất chọn lọc, và có thể điều trị cho các bệnh ung thư như u hạch ác tính, ung thư vùng đầu, cổ là những bệnh chúng ta có thể gắn các đồng vị phóng xạ vào các kháng thể đơn dòng. Tôi nghĩ, lĩnh vực ứng dụng năng lượng nguyên tử trong y tế đặc biệt trong ung thư, nói cụ thể ra là y học hạt nhân trong ung thư là một lĩnh vực có tương lai, mở ra hướng tích cực cho công cuộc phòng, chống bệnh ung thư của chúng ta.

MC: Bạn đọc có địa chỉ mail lehungf70@gmail.com có câu hỏi xin được hỏi GS.TS Trần Văn Thuấn: Tôi nghe nói, ung thư có thể do môi trường sống, đột biến gen, và do di truyền, bác sỹ cho thể cho biết nguyên nhân nào là chính yếu. Bố tôi bị ung thư đại tràng thì khả năng người trong gia đình tôi bị ung thư có cao không ạ?

GS.TS Trần Văn Thuấn: Chúng ta có 4 biện pháp chính trong điều trị ung thư, bao gồm phẫu thuật, xạ trị, điều trị hóa chất và điều trị bằng thuốc sinh học. Mỗi biện pháp có một thế mạnh. Ví dụ, phẫu thuật là biện pháp có thể điều trị khỏi hoàn toàn ung thư cổ tử cung nếu như chúng ta phát hiện sớm. Xạ trị là biện pháp điều trị bình phục; điều trị bằng hóa chất, sinh học là biện pháp điều trị toàn thân. Để điều trị cho mỗi loại ung thư, chúng ta phải cân nhắc dựa trên giai đoạn và từng loại bệnh để đưa ra hướng điều trị cho từng trường hợp cụ thể. Tôi ví dụ, với bệnh ung thư vú, nếu phát hiện sớm thì hoàn toàn có thể chữa khỏi bằng phẫu thuật. Nếu muộn thì phải vừa phẫu thuật, vừa xạ trị vùng đó, kèm theo uống thuốc nội tiết. Muộn hơn nữa, vừa phải phẫu thuật, vừa phải xạ trị, vừa dùng hóa chất, vừa phải dùng thuốc với chi phí đắt và hiệu quả điều trị kém.

Để đưa ra đường lối, chiến lược điều trị cho từng bệnh nhân, các cơ sở lớn, ví dụ như Viện K chúng tôi thường có Tiểu ban khối u cho từng loại bệnh. Trong đó, bao gồm các nhà lâm sàng, các nhà cận lâm sàng cùng bàn bạc, đưa ra phương án tối ưu nhất cho từng trường hợp cụ thể, với từng bệnh cụ thể.

Với câu hỏi của độc giả, như tôi đã trình bày, có trên 80% nguyên nhân gây ung thư do môi trường bên ngoài. Bao gồm thuốc lá, dinh dưỡng không an toàn, không hợp lý, tiếp xúc với chất độc dioxin, phóng xạ, nhiễm một số loại vi khuẩn... Có trên 10% nguyên nhân gây ra ung thư đến từ các yếu tố bên trong, bao gồm di truyền và nội tiết. Trong đó, ung thư đại tràng có một nhóm có Hội chứng đa Polyp gia đình. Không phải 100% ung thư đại tràng là do di truyền, phần lớn nguyên nhân gây ra ung thư đại tràng là do môi trường bên ngoài như yếu tố dinh dưỡng. Yếu tố di truyền chỉ chiếm yếu tố nhỏ trong việc gây ra ung thư đại tràng. Để khẳng định các thành viên trong gia đình bạn có bị ung thư đại tràng hay không thì phải trả lời câu hỏi, ung thư đại tràng của bố bạn có phải do hội chứng đa Polyp gia đình gây ra hay không.

MC: Bây giờ là một câu hỏi của bạn đọc xin được giấu tên gửi đến PGS.TS. Trần Đình Hà: Chào PGS.TS.BS Trần Đình Hà. Cháu năm nay 33 tuổi, tháng 5 vừa rồi mới cắt bỏ hoàn toàn tuyến giáp do bị ung thư. Hiện nay cháu đã có thể trở lại với công việc, vẫn đều đặn uống hocmon mỗi ngày theo chỉ định của bác sĩ, xét nghiệm cho thấy liều lượng đầy đủ nhưng nhận thấy sức khỏe giảm sút so với trước khi bị bệnh. Bác cho cháu hỏi tình trạng sức khỏe của cháu có thể phục hồi theo thời gian không? Cháu có thể sinh thêm con không với tình trạng uống thuốc mỗi ngày có gây ảnh hưởng gì không? Và thời gian phù hợp để mang thai là sau bao lâu? BS điều trị bảo cháu chỉ uống thuốc liên tục 3 năm, nhưng nếu ngưng thuốc thì làm sao sản sinh hocmon điều hòa cơ thể. Cảm ơn bác đã tiếp nhận câu hỏi của cháu. Chúc bác nhiều sức khỏe ạ.

PGS.TS. Trần Đình Hà: Ung thư tuyến giáp nếu phát hiện sớm thì có thể chữa khỏi hoàn toàn. Trường hợp của bạn ung thư tuyến giáp, đã phẫu thuật và cắt tuyến giáp toàn phần, và dùng hooc môn thay thế, bạn hỏi là uống đến bao giờ và có thể sinh con được hay không? Tôi cho rằng, u tuyến giáp được chia ra loại biệt hóa, không biệt hóa. Loại ung thư biệt hóa chiếm tỷ lệ lớn trên tới 80%. Nhiều khả năng trường hợp của bạn là ung thư tuyến giáp biệt hóa. Đối với loại biệt hóa thì điều trị bằng phẫu thuật, điều trị bằng hocmon thay thế, điều trị tiếp tục bằng điot 131, sau đó duy trì bằng hoocmon tuyến giáp để bồi phụ hoocmon tuyến giáp để trở về sinh hoạt bình thường, sinh lý bình thường, đồng thời ức chế không cho phát triển trở lại. Trường hợp của độc giả này sau khi điều trị nhưng thấy mệt mỏi thì nên đến cơ sở y tế để kiểm tra để xem phẫu thuật tuyến giáp của bạn đã hết chưa, có tái phát di căn vào đâu không? Bởi ung thư tuyến giáp đặc phái này dễ ung thư vào xương, phổi, tiến triển chậm, và làm cho cơ thể yếu dần, yếu dần, nếu phát hiện muộn thì sẽ khó khăn. Vậy uống hoocmon trong trường hợp này thì uống đến bao giờ? Ai cũng có tuyến giáp và chức năng là tiết ra hocmon tuyến giáp.

Trường hợp cắt tuyến giáp toàn phần rồi thì bắt buộc phải uống hocmon thay thế trọn đời. Thế việc sinh nở sẽ như thế nào? Trong lúc đang điều trị, sức khỏe chưa ổn định, thì việc sinh nở thì chưa nên. Mà trước hết nên đến cơ sở khám chữa bệnh ung thư. Ung thư tuyến giáp thì chủ yếu điều trị tại cơ sở y học hạt nhân, bạn ở Hà Nội, do vậy, bạn nên đến Trung tâm y học hạt nhân ung bướu Bạch Mai để điều trị.

MC: Tiếp theo là một câu hỏi của một độc giả Báo ĐBND có địa chỉ mail nguyenthao87@gmail.com xin được hỏi Bác sĩ Phạm Văn Thoãn. Thưa bác sỹ, bác em bị K vú, đã phẫu thuật và hóa trị cách nay 12 năm. Đến tháng 11.2015, bác đi khám và chụp CT phát hiện khối u phổi gần 10cm, tràn dịch phổi. Sau đó bác sĩ chẩn đoán là K phổi do K vú di căn. Vì di căn nên người nhà tự ý đưa về mà không nói bác sĩ. Hiện nay bác em đau rất nhiều, sưng mặt sưng nách, phù người, mắt hơi nhỏ. Vậy xin hỏi là bác em còn sống được bao lâu, cách nào giảm đau mà không đến bệnh viện hay không?

Bác sĩ Phạm Văn Thoãn: Đây là một câu hỏi rất khó và cũng rất hay. Bác bị cách đây 12 năm không biết ngày đấy đã điều trị những gì và đã điều trị hết các mô thức như phẫu thuật, tia xạ, hóa chất… chưa? Nếu bạn đến Bệnh viện K Trung ương thì sẽ phát hiện ra ngay là có phải di căn từ vú hay không. Bởi thực tế hiện nay có trường hợp bị một lúc đến 3 bệnh ung thư hay 2 ung thư. Cũng có thể qua quá trình điều trị, bác của bạn dùng tia xạ chẳng hạn, hoặc hóa chất thì chính những điều trị đó, tác nhân đó vừa điều trị ung thư nhưng cũng là tác nhân gây ra ung thư.

Có nhiều trường hợp bị ung thư vú, sau khi điều trị 5 – 7 năm thì phát hiện bị ung thư tuyến giáp, nguyên nhân là trong quá trình điều trị tia xạ che chắn tuyến giáp kém. Có nhiều nguyên nhân nhưng cũng có thể là trùng hợp.

Đối với ung thư ở phổi của bác của bạn, muốn xem có đúng là ung thư vú di căn hay không thì phải là những nhà xét nghiệm học thì mới phát hiện được vì có thể xẩy ra hai trường hợp là di căn hoặc ung thư mới. Đối với trường hợp cụ thể của bạn, có thể thấy khá nặng và muộn, quan trọng bây giờ là công tác giảm đau, chủ yếu là dùng các thuốc giảm đau với các bậc thang giảm đau. Đầu tiên là phải dùng các thuốc giảm đau thông thường, sau đó có thể kết hợp với các thuốc giảm đau gây nghiện.

MC: Bạn đọc Tùng Minh, 35 tuổi, Thanh Hóa hỏi: Xin được hỏi PGS.TS. Trần Văn Thuấn, hiện nay có một số sản phẩm quảng cáo giúp giải độc cơ thể để dự phòng ung thư, tuy nhiên khi tìm hiểu thì tôi thấy bản chất là bổ gan, liệu tôi dùng sản phẩm như vậy có chắc chắn giúp dự phòng ung thư được không? Bác sỹ có thể khuyên dùng sản phẩm nào có giá thành hợp lý và hiệu quả tốt trong việc tăng cường sức khỏe, dự phòng ung thư không ạ, cơ chế tác dụng và cách sử dụng như thế nào?

PGS.TS. Trần Văn Thuấn: Trước hết để phòng ngừa ung thư thì chúng ta phải có các biện pháp chính thống mà chúng ta đã nêu tức là chúng ta phải loại trừ các yếu tố nguyên nhân về ung thư. Theo đó, chúng ta có hai nhóm, nhóm ngoại sinh và nhóm nội sinh.

Nội sinh là yếu tố chúng ta khó thay đổi thì chúng ta chủ yếu tác động vào ngoại sinh tức là nguyên do của trên 50% về ung thư bằng cách nào? Thứ nhất, bỏ thuốc lá. Thứ hai xây dựng chế độ dinh dưỡng an toàn, hợp lý kết hợp với tập luyện. Thứ ba, chúng ta phòng ngừa một số bệnh nhiễm trùng ví dụ chúng ta phải tiêm vaccine để phòng viêm gan B, C qua đó phòng chống ung thư gan. Phải tiêm vaccine phòng, chống nhiễm virus gây ung bướu vào người để phòng ung thư tử cung. Bên cạnh đó, thì cũng có một số biện pháp khuyến cáo để dùng phòng bệnh. Tuy nhiên, nó cũng không phổ biến. Thậm chí chúng ta biết là có một diễn viên nổi tiếng đã cắt tuyến vú để phòng ngừa ung thư vú, bởi vì chị là người có tiền sử bị đột biến ung thư vú, tức là nguy cơ cao ung thư vú và đã cắt tuyến vú. Tuy nhiên, đây là biện pháp chống ung thư mà chúng tôi không khuyến cáo ở Việt Nam. Bởi lẽ nó quá nặng nề và ảnh hưởng đến quá nhiều tới người phụ nữ. Ngay cả cắt tuyến vú thì cũng không hẳn là phòng ngừa được 100% tuyến vú. Bởi lẽ, ung thư vú cũng có thể phát triển từ cái mô còn sót lại sau khi cắt bỏ không hết. Tốt nhất là chúng ta xây dựng một chế độ dinh dưỡng lành mạnh từ bỏ thuốc lá, thể dục thể thao và tiêm một số thuốc phòng ngừa nghiễm trùng và nên đi khám sức khỏe định kỳ. Nếu có mắc ung thư thì chúng ta sẽ phải đến sớm và điều trị kịp thời thì khả năng cao bệnh ung thư sẽ được chữa khỏi.

Hiện tại, qua thống kê của một số nước phát triển thì tỷ lệ chữa khỏi ung thư đã lên tới 80%. Ở Việt Nam tỷ lệ chữa khỏi do ung thư thì không được cao như vậy, bởi vì phần lớn người bệnh ở Việt Nam khi khám và điều trị bệnh tương đối muộn. Những thống kê của chúng tôi có tới trên 70% người bệnh tới khám và chữa bệnh ung thư ở giai đoạn 1 và đây là lý do chính giải thích vì sao tỷ lệ chữa khỏi bệnh ung thư ở Việt Nam không được như các nước.

Phát hiện ung thư càng sớm thì tỷ lệ chữa khỏi càng cao và càng đơn giản, hiệu quả và càng rẻ tiền. Mặc dù chúng ta có các biện pháp điều trị phương tiện hiện đại được Nhà nước, Chính phủ, Bộ Y tế trang bị cho các bệnh về K riêng và các cơ sở phòng chống ung thư nói chung không kém gì các nước và trình độ của ta cũng tương đương với các nước trong khu vực.

MC: Câu hỏi của bạn đọc có địa chỉ mail Thuhong1989@gmail.com xin được gửi tới DS. Thạc sỹ Nguyễn Thị Vũ Thành: Thưa dược sỹ, trước nạn thực phẩm bẩn, không khí môi trường ô nhiễm hiện nay, tôi rất lo lắng cho sức khỏe của người thân trong gia đình, được biết GenK là 1 loại sản phẩm Fucoidan sulphate hóa cao có cơ sở khoa học tin cậy, kế thừa và hơn hẳn hiệu quả tác dụng của các loại Fucoidan thông thường khác trên thị trường, tôi có thể sử dụng GenK để phòng ngừa ung thư cho mọi người trong gia đình tôi được không? Sản phẩm này có sử dụng cho trẻ em, phụ nữ mang thai hay phụ nữ cho con bú (chúng tôi đang có kế hoạch sinh thêm em bé), người già như bố tôi bị huyết áp cao và sức khỏe kém, mẹ tôi còn bị tiểu đường có dùng được hay không? Chi phí và cách sử dụng GenK để dự phòng như thế nào?

DS. Thạc sỹ Nguyễn Thị Vũ Thành : Cá nhân tôi rất chia sẻ với bạn, có lẽ đó là mối lo lắng của tất cả những người dân Việt Nam hiện nay trước nạn ô nhiễm môi trường và thực phẩm bẩn. Chúng ta đều biết mỗi năm ở Việt Nam có tới hơn 200 nghìn người mắc mới và hơn 70 nghìn người tử vong do ung thư. Tuy nhiên ung thư không phải là án tử mà hoàn toàn có thể dự phòng cũng như là phát hiện sớm để có được kết quả điều trị bệnh tốt nhất.

DS. Thạc sỹ Nguyễn Thị Vũ Thành - Phó Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Dược phẩm GoldHealth Việt Nam trao đổi tại Tọa đàm
DS. Thạc sỹ Nguyễn Thị Vũ Thành - Phó Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Dược phẩm GoldHealth Việt Nam trao đổi tại Tọa đàm

Như bạn đã biết, Genk là sản phẩm đầu tiên và duy nhất ở trên thị trường Việt Nam hiện nay kể cả thị trường trong nước và nhập khấu có hoạt chất Fucoidan sulfate hóa cao, phân tử lượng thấp với cơ sở khoa học tin cậy, tăng độ hấp thu và hoạt tính lên rất nhiều lần, được kế thừa và vượt trội hơn hẳn so với tác dụng của Fucoidan thông thường. Sản phẩm này được nghiên cứu bởi Viện Hàm lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, sản xuất bởi Công ty Trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên Dược Khoa thuộc Trường ĐH Dược Hà Nội và là đề tài nghiên cứu cấp Nhà nước, thuộc Chương trình nghiên cứu khoa học công nghệ trọng điểm quốc gia phát triển công nghiệp hóa dược đến năm 2020. Với độ tinh sạch trên 95% và hoạt chất Fucoidan sulfate hóa cao có phân tử lượng thấp đã bảo đảm được tính an toàn cũng như hoạt tính sinh học cao hơn gấp nhiều lần so với các sản phẩm Fucoidan trong nước và thậm chí nhập khẩu như của Mỹ, của Nga hay của Nhật hiện nay. Bạn hoàn toàn có thể sử dụng để dự phòng ung thư cho mọi người trong gia đình của mình. Kể cả trẻ em và vợ của bạn, như là bạn đang chia sẻ là các bạn đang có kế hoạch sinh thêm em bé.

Sản phẩm này sử dụng rất tốt và an toàn cho phụ nữ mang thai, phụ nữ đang cho con bú. Thậm chí, sản phẩm an toàn và tốt cho cả người già như bạn nói bố bạn, mẹ bạn khi có một số bệnh kèm theo như huyết áo cao tiểu đường, vì ngoài tác dụng dự phòng và hỗ trợ điều trị ung thư, giảm tác dụng phụ của hóa trị, xạ trị thì sản phẩm cũng có một số hoạt tính quý như điều hòa huyết áp, đường huyết, mỡ máu, tăng cường sức đề kháng, tăng cường chức năng gan, chống lão hóa, chống đông cục máu, phòng đột quỵ và tai biến. Về chi phí và cách sử dụng sản phẩm GenK.

Hiện có hai cách để sử dụng dự phòng. Lý tưởng nhất là chúng ta nên sử dùng thường xuyên, lâu dài nếu chúng ta có điều kiện. Bởi ngoài dự phòng ung thư thì GenK còn có khả năng dự phòng một số loại bệnh khác như tôi vừa chia sẻ, giúp tăng cường sức khỏe. Cách thứ hai, để tiết kiệm chi phí, chúng ta có thể sử dụng GenK theo đợt, mỗi đợt khoảng từ 15-20 ngày, sau đó chúng ta dừng tối đa là 3 tháng rồi sử dụng lại với liệu trình như vậy. Với cách sử dụng theo đợt thì chi phí dự phòng khi sử dụng GenK một người một tháng khoảng 400 nghìn đồng.

Hiện nay, GenK có thể coi như sản phẩm đồng hành cho sức khỏe của mọi người, là món quà biếu, quà tặng, thể hiện sự trân quý cũng như là thay lời yêu thương nhắn gửi đến người nhận nhân dịp lễ tết, kỷ niệm. Chẳng hạn là dịp 20.10 tới đây với bộ sản phẩm 3 hộp, mỗi hộp 30 viên cũng là một món quà ý nghĩa để chúng ta dành tặng cho những người phụ nữ thân yêu, góp phần dự phòng ung thư, tăng cường sức khỏe.

MC: Bác Văn Tuấn, 68 tuổi, Hà Nội xin được hỏi PGS.TS. Trần Đình Hà: Như ông nói, y học hạt nhân có tác dụng cho việc chữa trị cho nhiều bệnh nhân ung thư. Vậy dược chất phóng xạ cung cấp cho bệnh nhân ung thư trong nước thì có đủ hay không, nếu thiếu thì phải có giải pháp như thế nào thưa ông?

PGS.TS. Trần Đình Hà: Đây là vấn đề chúng tôi vẫn phải làm việc thường xuyên với các cơ sở cung cấp các chất phóng xạ, cơ quan quản lý là Cục quản lý Khám chữa bệnh, Cục Dược….

Trong nước có Viện nghiên cứu hạt nhân phóng xạ, trong đó có sản xuất các thuốc phóng xạ: diot 131…để chữa bệnh ung thư máu, ung thư xương… Thực tế thì chưa đủ nguồn cung trong nước nên vẫn phải nhập từ nước ngoài, qua các cơ quan quản lý nhà nước, Cục Dược, qua các cơ quan chuyên ngành khác thì có đơn vị cung cấp thuốc phóng xạ để chúng tôi sử dụng trong chữa trị. Trong quy hoạch của Bộ Y tế thì ứng dụng năng lượng nguyên tử có một mảng sản xuất ra các thuốc phóng xạ ứng dụng cho y học hạt nhân. Chúng tôi mong muốn, lĩnh vực này sớm được triển khai, sớm có sản phẩm để phục vụ cho việc chẩn đoán, điều trị.

    Nổi bật
        Mới nhất
        Tọa đàm “Phòng ngừa, phát hiện và điều trị ung thư giai đoạn sớm"
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO