Tọa đàm “Nâng cao chất lượng dân số trong tình hình mới”

- Thứ Hai, 18/11/2019, 14:48 - Chia sẻ
Thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW của Trung ương về công tác dân số trong tình hình mới, công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình thời gian qua đã đạt được những kết quả quan trọng, góp phần to lớn vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Chất lượng dân số được cải thiện về nhiều mặt; tuổi thọ trung bình tăng nhanh; tình trạng suy dinh dưỡng trẻ em, tử vong bà mẹ, trẻ em giảm mạnh…

Tuy nhiên, vấn đề chất lượng dân số cũng đang đứng trước các thách thức như: mức sinh giữa các vùng còn chênh lệch đáng kể, mất cân bằng giới tính khi sinh tăng nhanh và đã ở mức nghiêm trọng; tầm vóc, thể lực của người Việt Nam chậm được cải thiện; chưa có giải pháp đồng bộ phát huy lợi thế của thời kỳ dân số vàng và thích ứng với già hóa dân số; quản lý di cư còn nhiều bất cập…

Nhằm đánh giá tầm quan trọng đặc biệt của việc nâng cao chất lượng dân số theo tinh thần Nghị quyết số 21-NQ/TW, những thách thức đặt ra, đồng thời tìm ra giải pháp khả thi để nâng cao chất lượng dân số, Báo Đại biểu Nhân dân tổ chức Tọa đàm “Nâng cao chất lượng dân số trong tình hình mới”.


Ảnh: Duy Thông

Khách mời tham gia Tọa đàm gồm:

- Ông Bùi Sỹ Lợi, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội của Quốc hội;

- Ông Nguyễn Ngọc Phương, Phó trưởng Đoàn chuyên trách Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Bình, Ủy viên Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội;

- PGS.TS Nguyễn Duy Ánh, Giám đốc Bệnh viện Phụ sản Hà Nội;

- GS.TS Nguyễn Đình Cử, nguyên Viện trưởng Viện Dân số và các vấn đề xã hội – Đại học Kinh tế quốc dân;

- Ông Nguyễn Văn Tân, nguyên Phó Tổng cục trưởng phụ trách Tổng cục Dân số- Kế hoạch hóa gia đình.

Trân trọng kính mời bạn đọc theo dõi nội dung Tọa đàm tại đây:


Ảnh: Duy Thông

Tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng dân số trong bối cảnh công tác dân số trong tình hình mới

Chất lượng dân số là sự phản ánh các đặc trưng về thể chất, trí tuệ và tinh thần của toàn bộ dân số, bao gồm cả trình độ giáo dục, cơ cấu và trình độ nghề nghiệp - xã hội, tính năng động, mức sống, tình trạng sức khỏe; có quan hệ mật thiết với trình độ phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Do đó, chất lượng dân số phải là mục tiêu phấn đấu của cả cộng đồng, quốc gia nhằm hướng tới “nâng cao vị thế con người và phát triển đất nước phồn vinh”.

Nhằm nâng cao chất lượng dân số trong tình hình mới, Nghị quyết số 21-NQ/TW của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Ðảng Khóa XII nêu rõ: “Chuyển trọng tâm chính sách dân số từ kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển. Công tác dân số phải chú trọng toàn diện các mặt quy mô, cơ cấu, phân bố, đặc biệt là chất lượng dân số và đặt trong mối quan hệ hữu cơ với các yếu tố kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và bảo đảm phát triển nhanh, bền vững”.

BTV Vũ Thủy: Thưa ông Nguyễn Ngọc Phương, Phó trưởng Đoàn chuyên trách Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Bình: Dưới góc nhìn lập pháp, vấn đề dân số và phát triển được đặt ra trong bối cảnh mới có tầm quan trọng như thế nào, thưa ông?

Ông Nguyễn Ngọc Phương: Theo tôi, vấn đề dân số tác động rất lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Thời gian qua, tất cả các quốc gia đều rất quan tâm đến vấn đề dân số. Bài học rút ra ở một số nước như: Nhật Bản, Hàn Quốc đặt ra định hướng tương lai về sự phát triển dân số. Nhiều chuyên gia ở các nước cũng đặt ra vấn đề cho Việt Nam về chính sách phát triển dân số.


Ông Nguyễn Ngọc Phương, Phó trưởng Đoàn chuyên trách Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Bình, Ủy viên Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội
Ảnh: Duy Thông

Chính sách dân số thời gian qua có rất nhiều bước đi tiến bộ, ảnh hưởng rất lớn tới tiến trình phát triển kinh tế - xã hội, và góp phần bảo vệ sức khỏe con người, ổn định kinh tế, chính trị quốc gia.

Có thể nói, vấn đề dân số chính là “cửa ngõ” xung yếu để quốc gia phát triển bền vững, tồn tại lâu dài. Việc phát triển dân số trong tình hình mới không chỉ có tầm quan trọng với quốc gia mà đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng với từng gia đình và từng cá nhân. Như vậy, việc phát triển dân số trong tình hình mới theo định hướng là rất quan trọng.

BTV Vũ Thủy: Thưa ông Bùi Sỹ Lợi, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội của Quốc hội: Hơn nửa thế kỷ qua, chính sách dân số của Việt Nam vẫn là một dòng chảy liên tục, là mục tiêu quan trọng trong đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Là ĐBQH, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội của Quốc hội, xin ông chia sẻ về bối cảnh công tác dân số trong tình hình mới hiện nay và tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng dân số?

Ông Bùi Sỹ Lợi: Trong nửa thế kỷ qua, nước ta thực hiện chính sách dân số kế hoạch hóa gia đình. Đây là thành tựu vĩ đại, bảo đảm được mức sinh thay thế trong 10 năm gần đây. Tuy nhiên, hôm nay tôi muốn nói đến bối cảnh của công tác dân số, và tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng dân số trong tình hình mới.


Ông Bùi Sỹ Lợi, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội của Quốc hội 
Ảnh: Duy Thông

Đầu tiên là bối cảnh công tác dân số. Chúng ta đã đạt ngưỡng 100 triệu dân, chất lượng dân số đã nâng lên rất nhiều nửa thế kỷ qua, nhưng chất lượng dân số này so với yêu cầu thực tiễn cuộc sống, đáp ứng tình hình phát triển kinh tế xã hội, hội nhập thì rất đáng suy nghĩ. Tuổi thọ nâng lên, cuộc sống sức khỏe của người cao tuổi chưa đáp ứng yêu cầu. Chất lượng nhân lực nâng lên nhưng chúng ta còn băn khoăn sức khỏe, cho nên đề cập nâng tuổi nghỉ hưu, người lao động trực tiếp rất băn khoăn. Tỉ lệ thấp, còi của Việt Nam cũng đáng lưu ý. Lấy ví dụ, Nhật Bản, độ cao của người dân tăng nhanh trong mấy thập kỷ, còn Việt Nam thì rất chậm chạp. Thể còi xương của các cháu dưới 5 tuổi cũng đáng lưu ý. Ở Việt Nam bắt đầu xuất hiện câu chuyện cơ cấu chất lượng dân số theo vùng miền rất có vấn đề. Chăm sóc của chúng ta cho thế hệ tương lai rất lớn, nhiều chính sách nhưng đồng bào dân tộc, miền núi, vùng sâu vùng xa, biên giới, hải đảo, do điều kiện địa lý tác động nên gặp rào cản lớn. Sinh con tại nhà, cô đỡ thôn bản không có, tỉ lệ mất sau sinh còn cao. Tình trạng chênh lệch tỉ số giới tính khi sinh còn rất lớn. Nếu như năm 2017, tỉ số giới tính khi sinh giảm còn 112 bé trai/100 bé gái, nhưng năm 2018, tỉ số này tăng cao lên gần 115 bé trai /100bé gái.

Đánh giá bối cảnh công tác dân số hiện nay, công tác tổ chức bộ máy làm dân số đang có vấn đề. Công tác thông tin truyền thông phải đẩy lên, bộ máy phải được củng cố chứ không thu hẹp. Nếu không chăm lo công tác dân số, chúng ta sẽ chịu đựng “gánh nặng” về cơ cấu dân số, chất lượng dân số trong tương lai. Bởi dân số là một trong ba vấn đề của quá trình sản xuất. Lao động, công cụ lao động, tư liệu lao động quyết định yếu tố phát triển sản xuất nhưng ở ta, nhân lực chất lượng thấp dẫn đến năng suất lao động, tốc độ tăng trưởng ảnh hưởng.
Phải coi nâng cao chất lượng dân số như vấn đề hết sức bức bách. Rất mong các nhà dân số học, Tổng cục Dân số phải quay lại nghiên cứu, đưa Luật Dân số trình lên Quốc hội. Nếu làm được luật, xây dựng được cơ chế chính sách phát triển dân số, không phải tăng dân số, cho phép sinh quá giới hạn mà là tăng chất lượng dân số. Luôn phải giữ được mức sinh thay thế, là yếu tố có tính chất quyết định, không được rời bỏ, coi đây là công cụ để phát triển dân số.

Thứ hai, phải sinh ra những đứa trẻ phát triển, đáp ứng cuộc sống tốt nhất, đáp ứng phát triển nguồn nhân lực tốt nhất. Phải trở lại vấn đề sàng lọc trước khi sinh. Muốn có dân số tốt phải kiểm soát từ khi bắt đầu hình thành thai nhi, đang có ý kiến kể cả kiểm tra sức khỏe của các cặp vợ chồng... Dân số tăng theo tỉ lệ mức sinh thay thế nhưng phải quản được 2 vấn đề: Tăng quá cao thì kìm xuống, còn không chịu tăng thì phải khuyến khích, có chính sách để sinh đạt 2 con nhằm cân đối lực lượng dân số, không để xảy ra tình trạng dân số di cư quá nhiều từ nông thôn lên thành thị.

Đô thị cũng như nông thôn, nếu bảo đảm mức sinh thay thế thì dòng chuyển dịch tự do lao động ít đi, nếu không sẽ nảy sinh ra nhiều vấn đề xã hội, nhà ở cho lao động thu nhập thấp, nhà ở cho người nhập cư, tệ nạn xã hội, giao thông... Cho nên, đất nước phát triển, nền kinh tế tăng trưởng tốc độ cao thì chất lượng nguồn nhân lực phải đáp ứng nhu cầu.

BTV Vũ Thủy: Ông có nhắc đến công tác tổ chức bộ máy có vấn đề, cụ thể là gì?

Ông Bùi Sỹ Lợi: Bộ máy dân số ở Việt Nam nhập tách rất nhiều, không ổn định. Tôi nghĩ rằng, tổ chức bộ máy phải được ổn định, đừng nghĩ là có biên chế, tăng biên chế, mà là giảm biên chế nhưng chất lượng tốt lên, bộ máy của chúng ta làm được điều này.

BTV Vũ Thủy: Thưa PGS.TS Nguyễn Duy Ánh, Giám đốc Bệnh viện Phụ sản Hà Nội: Chất lượng dân số được phản ánh thông qua các tiêu chí cụ thể liên quan đến tỷ lệ dị tật bẩm sinh, tình trạng tầm vóc, thể lực, sức khoẻ sinh sản, trình độ học vấn, đời sống tinh thần… Với vai trò là Giám đốc Bệnh viện Phụ sản Hà Nội, ông đánh giá như thế nào về chất lượng dân số hiện nay, đặc biệt là chất lượng dân số đầu đời?

PGS.TS Nguyễn Duy Ánh: Dưới góc nhìn chuyên môn, tôi cho rằng, chất lượng dân số còn liên quan đến nhiều vấn đề khác chính là nhóm con người. Với y học hiện nay thì chúng ta biết được từng cá thể và biết được từng bộ gen của từng cá thể để từ đó tạo ra được từng cá thể theo ý muốn, có thể dự phòng được giáo dục và bệnh tật.


PGS.TS Nguyễn Duy Ánh, Giám đốc Bệnh viện Phụ sản Hà Nội
Ảnh: Duy Thông

Ở Việt Nam chỉ mong muốn sàng lọc để giúp các cặp vợ chồng biết họ có mang gen bệnh trong người hay không, từ đó đưa ra lời tư vấn cho các cặp vợ chồng và đưa ra lời khuyên khi họ mang thai. Nếu có thai rồi thì có thể sàng lọc được các bào thai, còn nếu có dị tật thì sẽ đình chỉ để hủy thai. Đến nay, Bệnh viện Phụ sản Hà Nội đã công bố toàn quốc về việc đã can thiệp được cả bào thai sẽ cho ra được đứa trẻ tốt hơn. Khi bé được sinh ra, chúng tôi sẽ lấy máu gót chân để đưa đi xét nghiệm, thực hiện khám ban đầu cho bé để phát hiện xem bé có vấn đề gì không, liệu có bệnh lý gì không. Bên cạnh đó, cùng với tiến bộ khoa học kỹ thuật đã giúp các nhà hoạch định dân số tạo ra được những nhân tố con người tốt nhất.

Đối với việc sàng lọc trước sinh, chúng tôi mong muốn Chính phủ, QH coi việc sàng lọc bào thai, sàng lọc sơ sinh và những bệnh lý cơ bản nên đưa vào nội dung bao phủ trong chương trình của bảo hiểm y tế.

Ở các nước tiên tiến hiện nay thường dành một khoản tiền đầu tư cho sức khỏe sinh sản để tạo ra chất lượng dân số tốt. Tuy nhiên, hiện nay, vấn đề môi trường và dự phòng chưa tốt nên con người phải đối đầu với nhiều bệnh lý, như: ung thư cổ tử cung, ung thú vú,… 2 căn bệnh này lại hoàn toàn có thể dự phòng được. Tôi cho rằng chúng ta nên có chính sách quan tâm đến sức khỏe cho người phụ nữ. Bởi đây, sẽ là yếu tố rất quan trọng để cải thiện chất lượng dân số.

BTV Vũ Thủy: Thưa GS. TS Nguyễn Đình Cử, nguyên Viện trưởng Viện Dân số và các vấn đề xã hội – Đại học Kinh tế quốc dân: Theo ông, chất lượng dân số ảnh hưởng như thế nào đến sự phát triển bền vững đất nước?

GS. TS Nguyễn Đình Cử: Tôi xin được nhắc lại tiêu đề của Nghị quyết 21-NQ/TW của Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Khóa XII về công tác dân số trong tình hình mới. Nghĩa là tình hình về dân số có thay đổi so với Nghị quyết 04-NQ/HNTW của Ban chấp hành Trung ương Đảng lần VII năm 1993. Nghị quyết này ra đời trong bối cảnh tình hình dân số mới, chẳng hạn như chúng ta đạt được mức sinh thay thế ( hiện nay là các cặp vợ chồng có 2 con, năm 1993 theo nghị quyết là 4 con).


GS.TS Nguyễn Đình Cử, nguyên Viện trưởng Viện Dân số và các vấn đề xã hội – Đại học Kinh tế quốc dân
Ảnh: Duy Thông

Việt Nam xuất hiện cơ cấu dân số vàng vào năm 2006 và bước vào quá trình già hóa năm 2011. Bối cảnh phát triển hiện nay cũng có nhiều vấn đề mới so với bối cảnh của Nghị quyết trước. Ví dụ như nền kinh tế thị trường của xã hội chủ nghĩa chúng ta ngày càng phát triển. Chúng ta đã trỏ thành nước có thu nhập trung bình, có bản Hiến pháp 2013. Đặc biệt, cuộc cách mạng về mặt công nghệ 4.0, nền kinh tế tri thức, chuyển đổi từ phát minh công nghiệp sang phát minh trí tuệ. Sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ hiện nay mang lại cơ hội cho tất cả các quốc gia, đồng thời cũng trải qua tất cả các thách thức trong phát triển bền vững, đặc biệt là trong điều kiện cạnh tranh rất khốc liệt.

Trong bối cạnh đó, chúng ta không thể thực hiện tốt nếu chất lượng thể chất, tinh thần, trí tuệ của đội ngũ lao động không tốt. Những con người yếu ớt, có trình độ học vấn chuyên môn không cao, năng suất lao động không đạt sẽ không thể vượt qua những thách thức thời đại mới, thời đại mà công nghệ phát triển. Chất lượng nguồn nhân lực là yếu tố quyết định sự thắng lợi trong quá trình cạnh tranh cũng như phát triển bền vững của đất nước. Trong nhiều mô hình tính toán thống kê về kinh tế lượng, chúng tôi thấy rất rõ sự phát triển bền vững của đất nước chủ yếu trong tương lai dài hạn là dựa vào năng suất lao động, tức là dựa vào chất lượng của nguồn nhân lực, chất lượng dân số. Đó là yếu tố duy nhất để đảm báo sự tăng trưởng kinh tế bền vững.

Thời đại ngày nay, yêu cầu về hàng hóa, dịch vụ phải có chất lượng cao, sẽ rất vô lý nếu con người lại chất lượng không cao.

BTV Vũ Thủy: Thưa ông Nguyễn Văn Tân, từng là người phụ trách Tổng cục Dân số- Kế hoạch hóa gia đình, ông có thể chia sẻ ý kiến của mình về những kết quả đạt được trong việc nâng cao chất lượng dân số trong tình hình mới hiện nay?

Ông Nguyễn Văn Tân: Trước hết, chúng ta phải công nhận những thành tựu đã đạt được trong công tác dân số nói chung, đặc biệt là công tác nâng cao chất lượng dân số là rất đáng khích lệ. Nếu chỉ xét về chỉ số phát triển con người thì năm 2017, Chương trình phát triển Liên Hợp quốc tại Việt Nam (UNDP) đánh giá: Việt Nam thuộc nhóm có chỉ số trung bình cao, ngang bằng những nước có thu nhập cao trong khu vực và thế giới.


Ông Nguyễn Văn Tân, nguyên Phó Tổng cục trưởng phụ trách Tổng cục Dân số- Kế hoạch hóa gia đình
Ảnh: Duy Thông

Xét về các chỉ số khác, như tuổi thọ dân số Việt Nam đã đạt mức xấp xỉ 74 tuổi. Đây là tuổi thọ khá cao so với các nước trong khu vực. Không những vậy, các chỉ số về chiều cao, cân nặng, thể chất, thể lực... của dân số Việt Nam liên tục tăng cao trong nhiều năm. Đơn cử như, thể lực và sức bền... của Đội bóng đá Quốc gia đã được nâng cao hơn rất nhiều so với các thế hệ đàn anh. Các cầu thủ của chúng ta đã có thể thi đấu trọn vẹn 90 phút, thậm chí 120 phút khi đối đầu với những đội bóng có thể lực sung mãn. Tỷ lệ suy dinh dưỡng và suy dinh dưỡng ở thể thấp còi ở trẻ em liên tục được cải thiện...

Do đó, có thể khẳng định, chất lượng dân số của Việt Nam đã được nâng cao. Kết quả này đã vượt qua kỳ vọng và yêu cầu về chất lượng dân số để đất nước có thể phát triển nhanh và bền vững. Tuy nhiên, để bảo đảm mục tiêu chất lượng dân số trong thời kỳ hội nhập, chúng ta cần chú trọng hơn nữa việc thực hiện các mục tiêu của công tác dân số.

Những thách thức mới đặt ra trong công tác nâng cao chất lượng dân số

Pháp lệnh Dân số 2003 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định: “Nâng cao chất lượng dân số là chính sách cơ bản của Nhà nước trong sự nghiệp phát triển đất nước. Nhà nước thực hiện chính sách nâng cao chất lượng dân số về thể chất, trí tuệ và tinh thần nhằm nâng cao chỉ số phát triển con người của Việt Nam lên mức tiên tiến của thế giới, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, xác định “Chất lượng dân số là sự phản ánh các đặc trưng về thể chất, trí tuệ và tinh thần của toàn bộ dân số”.

Trong những năm qua, công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình đã đạt được những kết quả quan trọng, góp phần to lớn vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Chất lượng dân số được cải thiện về nhiều mặt; tuổi thọ trung bình tăng nhanh… Tuy nhiên, mức sinh giữa các vùng còn chênh lệch đáng kể, mất cân bằng giới tính khi sinh tăng nhanh và đã ở mức nghiêm trọng; tầm vóc, thể lực của người Việt Nam chậm được cải thiện; chưa có giải pháp đồng bộ phát huy lợi thế của thời kỳ dân số vàng và thích ứng với già hóa dân số; chất lượng dân số còn thấp; phân bố dân số, quản lý di cư còn nhiều bất cập… đang đặt ra rất nhiều thách thức trong công tác nâng cao chất lượng dân số.

BTV Vũ Thủy: Thưa ông Bùi Sỹ Lợi: Dưới góc nhìn của người làm chính sách, theo ông, những thách thức mới đặt ra trong công tác nâng cao chất lượng dân số hiện nay là gì?

Ông Bùi Sỹ Lợi: Phải nói rằng, công tác dân số chúng ta đã đạt thành tựu rất đáng phấn khởi, đáng ghi nhận nhưng để đáp ứng yêu cầu thực tiễn, phát triển ở tầm cao, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế thì còn thách thức lớn. Qua nghiên cứu thực tiễn của công tác dân số, tôi xin nêu hai thách thức lớn để chúng ta nghiên cứu chính sách.


Ảnh: Duy Thông

Một là, mức sinh trong 10 năm qua đạt mức sinh thay thế nhưng mức sinh không đồng đều giữa các vùng miền. Bí thư Thành ủy TP Hồ Chí Minh Nguyễn Thiện Nhân nói tốc độ tăng dân số của TP Hồ Chí Minh chỉ có 1,47, còn có vùng mức sinh thay thế lại vượt khỏi mức 2,1. Đó là thách thức lớn và rất khó điều chỉnh. Ví dụ, đặt ra yêu cầu TP Hồ Chí Minh phải đạt được mức sinh thì lập tức dòng di chuyển của những người muốn sinh con sẽ tập trung vào khu vực này, đấy là vấn đề lực cản mà chúng ta phải suy nghĩ. Còn nếu vùng sâu, vùng xa mà không có chính sách để người dân sinh đẻ ở mức thay thế, nếu vượt quá thì sẽ dẫn đến khó khăn kinh tế - xã hội. Có những vùng chúng ta phải hoàn toàn khuyến khích mức sinh như: có những dân tộc có nguy cơ diệt vong nòi giống thì phải bảo tồn.

Thứ hai, tôi hoàn hoàn đồng tình với ông Nguyễn Duy Ánh, chúng ta đang tiếp cận khoa học kỹ thuật hiện đại nhưng lại cảnh báo vấn đề can thiệp quá nhiều bằng khoa học, điều này cũng phát sinh nhiều vấn đề. Sinh con hoàn toàn theo ý muốn thì dẫn đến mức sinh không đạt mức sinh tự nhiên, sẽ dẫn đến nhiều khó khăn, bài học của chúng ta là tỉ lệ giới tính khi sinh đã cho thấy điều đó. Tôi cho rằng đây là hai vấn đề cơ bản nên nghiên cứu để hoạch định chính sách, bảo đảm chất lượng dân số phát triển một cách đúng mức, bảo đảm khoa học.

BTV Vũ Thủy: Thưa ông Nguyễn Văn Tân: Là người từng làm công tác quản lý nhà nước lĩnh vực dân số- kế hoạch hóa gia đình, việc kiện toàn hệ thống tổ chức làm công tác dân số tuyến tỉnh, huyện và tuyến xã có thuận lợi và khó khăn gì? Đâu là những khó khăn đến từ vấn đề nguồn lực?

Ông Nguyễn Văn Tân: Xuất phát từ những thành tựu trong công tác dân số, năm 2006 Việt Nam đã hoàn thành sớm hơn 10 năm mục tiêu “đạt mức sinh thay thế”. Từ đó đến nay, nước ta vẫn tiếp tục duy trì được mức sinh thay thế. Đây là tiền đề để phát triển kinh tế - xã hội một cách bền vững trong bối cảnh hội nhập toàn cầu hiện nay.

Qua kinh nghiệm của các nước cho thấy, nếu không thực hiện được các mục tiêu dân số sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến những mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, thậm chí nguy cơ tiêu vong dân tộc hoàn toàn có thể xảy ra, khi quốc gia không đạt được mức sinh thay thế. Do đó, bài học đầu tiên trong công tác dân số là kiện toàn hệ thống tổ chức làm công tác dân số để bảo đảm thực hiện hiệu quả các mục tiêu dân số.


Ảnh: Duy Thông

Bài học thứ hai là có được qua quá trình thực hiện là củng cố tổ chức dân số từ Trung ương đến địa phương để đưa được những chính sách, đường lối đến với từng người dân.

Thực tế, những năm vừa qua Việt Nam đã có quá nhiều sự thay đổi trong cơ cấu tổ chức dân số. Chúng ta đã xử lý bộ máy tổ chức dân số một cách cơ học. Cấp huyện trở xuống đang bị “teo lại” và nảy sinh gây nhiều khó khăn trong về triển khai công tác dân số.

Mặt khác, cán bộ dân số nhập vào trạm y tế xã dẫn đến sự khủng hoảng của đội ngũ cán bộ dân số ở địa phương. Quyết định đưa 11 ngàn cán bộ dân số chuyên trách cấp xã vào viên chức ở các trạm y tế xã khiến mỗi năm tiêu tốn một lượng lớn cho quỹ lương cán bộ dân số này. Tuy nhiên, hiệu quả thực hiện lại không cao do quản lý điều hành bị thay đổi.

Ngoài ra, nội dung của dân số thay đổi rất nhiều do quá trình phát triển kinh tế, xã hội. Hiện nay, cán bộ làm công tác dân số phải giải quyết toàn bộ các vấn đề của dân số như làm sao để cân bằng được giới tính, nâng cao chất lượng dân số... Vì vậy, có nhiều nội dung trong công tác dân số phải đào tạo lại kiến thức cho cán bộ dân số cho phù hợp với tình hình hội nhập toàn cầu.

BTV Vũ Thủy: Là chuyên gia nghiên cứu lĩnh vực dân số- kế hoạch hóa gia đình, ý kiến của ông về vấn đề này như thế nào?

Ông Nguyễn Đình Cử: Nói về bộ máy tôi xin bổ sung ý kiến, thách thức lớn nhất hiện nay đối với bộ máy công tác dân số trong đó có cấp huyện.

Nghị quyết về Dân số - kế hoạch hóa gia đình 1993, trong đó chỉ nêu duy nhất một mục tiêu (từ cặp vợ chồng đẻ 4 con thành chỉ đẻ 2 con).

Nghị quyết mới của chúng ta (Nghị quyết 21 năm 2017), có 6 nhóm mục tiêu, bao gồm  24 chỉ tiêu cụ thể (trong khi trước đây chỉ có một mục tiêu, một chỉ tiêu). Nhưng tổ chức để làm công tác này hiện nay, tôi có thể nói là bị “teo tóp” lại rất lớn ở cấp huyện.


Ảnh: Duy Thông

Trước đây, trung bình một trung tâm dân số có 6 cán bộ biên chế, ở Hà Nội thì có 8 cán bộ. Nhưng hiện nay nhiều địa phương, rất nhiều trung tâm dân số, y tế chỉ còn 1 - 3 cán bộ.

Vì sao lại như vậy? Thực tế cho thấy, có hai làn sóng di chuyển, trước khi trung tâm dân số hợp nhất với trung tâm y tế theo Nghị quyết 18, 19 của Trung ương, rất nhiều cán bộ trung tâm dân số địa phương trước kia không có bằng cấp về y khoa, khi các cán bộ này về trung tâm y tế thì chuyên môn không thích hợp, vì vậy họ xin chuyển, đấy là làn sóng di chuyển thứ nhất.

Trong khi đó, làn sóng thứ hai là, khi hợp nhất, cán bộ của trung tâm dân số cũ có bằng cấp về y tế, thì trung tâm y tế lập tức điều chuyển qua khối điều trị, dẫn tới mất cán bộ lần thứ 2.

Hiện hầu hết các tỉnh, cấp huyện, đặc biệt là trong 2 năm vừa qua, đa số chỉ còn 3 cán bộ (giảm 50%), nhiều huyện chỉ còn 1 cán bộ, gọi là phòng dân số nhưng chỉ có 1 người. Có một vài địa phương phản ánh còn “một người rưỡi”, phân là 2 người nhưng cả 2 người đều bị điều chuyển, kiêm nhiệm làm nhiệm vụ khác của trung tâm y tế.

Trong bối cảnh tự chủ tài chính, tất nhiên là tự chủ chỉ ở mức độ nhất định, nhưng nếu tự chủ hoàn toàn thì phải do khối khám, chữa bệnh thu được tiền, còn công tác dân số được bao cấp không thu được kinh phí.

Do đó, việc thu hút cả nhân lực, tài lực, vật lực vào khối điều trị dẫn tới nguồn lực dành cho công tác dân số rất là khó khăn. Chúng ta hợp nhất mới chỉ làm được việc tinh giản nhưng lại chưa hiệu quả. Đây chính là điều bất cập.

BTV Vũ Thủy: Thưa ông Nguyễn Ngọc Phương, ông suy nghĩ gì về những thách thức mới đặt ra trong công tác nâng cao chất lượng dân số hiện nay?

Ông Nguyễn Ngọc Phương: Chất lượng dân số ở nước ta hiện nay được cải thiện về nhiều mặt, tuy nhiên vẫn chưa đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thách thức mới đặt ra trong công tác nâng cao chất lượng dân số hiện nay là: chỉ số phát triển con người (HDI) còn thấp, chậm được cải thiện… các mục tiêu trong Nghị quyết 21/NQ-TW ngày 25.10.2017 về công tác dân số trong tình hình mới, chưa đáp ứng.


Ảnh: Duy Thông

Thực tế, những thách thức đặt ra cho công tác dân số không hề mới mà đã tồn tại từ nhiều năm nay nhưng chưa giải quyết được. Thách thức lớn nhất và khó giải quyết nhất là mất cân bằng giới tính khi sinh, càng ở đô thị thì càng khó khắc phục vì tâm lý của người dân luôn luôn muốn có con trai để “nối dõi tông đường” hay làm “trụ cột” trong gia đình vẫn tồn tại, điều đó đã khiến tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh trở nên nặng nề. Nhiều tỉnh thành cứ 100 nữ thì có tới 120 nam.

Thứ hai, là mất cân bằng dân số ở các vùng, những nơi càng phát triển thì dân di cư càng đông, còn vùng dân tộc thiểu số, khó khăn thì rất thưa người. Ví dụ như ở Quảng Bình, đa số thanh niên tập trung chủ yếu ở thành thị, xu thế này không chỉ ở Quảng Bình mà các thành phố lớn khác của nước ta đều như vậy.

Thứ ba, là thời kỳ dân số vàng với già hóa dân số diễn ra gần như cùng lúc. Do đó, giai đoạn dân số vàng của Việt Nam ngắn hơn nhiều so với các nước khác, chỉ vào khoảng 17 năm (tới khoảng năm 2025). Việt Nam là một trong những nước có tốc độ già hoá nhanh nhất thế giới. Cơ cấu dân số vàng Việt Nam mới chỉ có nghĩa là dân số trong độ tuổi từ 15 - 64, mới chỉ mang lại khả năng và cơ hội chứ chưa phải là đã đem lại kết quả ngay cho tăng trưởng và phát triển kinh tế. Dân số vàng mới chỉ là “vàng” về số lượng chứ chưa xét đến chất lượng.

Thứ tư, đó là nghịch lý đối tượng có trí tuệ, thể chất tốt, có tiềm lực về kinh tế để nuôi dạy, đào tạo để tạo ra nguồn dân số với chất lượng tốt không muốn sinh đẻ còn đối tượng vùng nghèo khó thì lại sinh nhiều. Điều này khiến chất lượng dân số chưa đạt như kỳ vọng, khó có thể đóng góp cho xã hội.

Thứ năm, mô hình tổ chức, bộ máy làm công tác dân số, kinh phí cho công tác dân số ngân sách của Trung ương lại giảm mạnh. Thậm chí, năm 2018 chỉ còn 289 tỷ đồng, tức là chỉ bằng gần 30% so với năm 2012. Cấp rất chậm, nguồn tài trợ quốc tế và huy động nguồn lực xã hội cho công tác này gần như không đáng kể trong khi nhiệm vụ ngày càng nhiều. Bên cạnh đó, một số cấp ủy, chính quyền còn xem nhẹ công tác dân số- kế hoạch hóa gia đình, chưa nhận thức đúng, đầy đủ về tính chất lâu dài, khó khăn, phức tạp, tầm quan trọng, ý nghĩa của công tác dân số và phát triển; lãnh đạo, chỉ đạo chưa quyết liệt, chưa hiệu quả. Tư tưởng muốn có nhiều con, trọng nam hơn nữ vẫn còn trong một bộ phận nhân dân, kể cả cán bộ, đảng viên.

Có thể nói, tất cả những điều này đã đặt ra hàng loạt thách thức cho Việt Nam trong việc tận dụng khai thác nguồn lực dân số, lao động cho phát triển kinh tế - xã hội. Trước những thách thức đó, giải pháp then chốt chính là đẩy mạnh sự truyền thông vận động về dân số và phát triển, về Nghị quyết số 21-NQ/TW.

BTV Vũ Thủy: Thưa PGS.TS Nguyễn Duy Ánh: Một trong những thách thức đối với chất lượng dân số là việc thực hiện tầm soát trước sinh và sơ sinh, tư vấn và khám sức khỏe trước hôn nhân. Theo ông, thách thức này đối với công tác dân số hiện nay như thế nào?

Ông Nguyễn Duy Ánh: Người dân Việt Nam hiện nay chưa có khái niệm nhiều về việc đi khám tiền hôn nhân vì chưa có truyền thông sâu rộng đến người dân. Trước đây, chúng ta có mạng lưới dân số từ Trung ương đến địa phương rất bền chặt. Thực tế, trên thế giới làm dân số rất đơn giản vì các thể chế chính trị, cơ sở hạ tầng, chính sách xã hội và trí thức của người dân rất cao; đồng thời, y tế sẽ đóng vai trò quan trọng, then chốt đối với sức khỏe con người để dự phòng và khám, chữa bệnh cho người dân.


Ảnh: Duy Thông

Đối với chúng ta, hiện nay người dân đã có khái niệm nhất định về sàng lọc nhưng để hiểu đầy đủ và dám làm hay không thì chưa có. Chúng ta sẽ làm từng bước nhưng quan trọng nhất là ai làm và làm như thế nào, phải có cán bộ y tế, những người có kiến thức để tư vấn cho người dân. Hiện nay, có người tìm đến các thầy lang; đi soi trứng hay thụ tính trong ống nghiệm để xem là con trái hay gái. Tuy nhiên, thụ tinh trong ống nghiệm mới chỉ đạt tỷ lệ 65%.

Thực tế, trong xã hội hiện nay đang có tình trạng mất cân bằng giới tính là do khoa học phát triển, người ta áp dụng thêm để lựa chọn, từ đó cho thấy rằng việc sàng lọc luôn có 2 mặt. Đối với sàng lọc nhân đạo để biết được bệnh tật từ đó tư vấn giúp người dân là rất tốt và nhà nước nên đầu tư để sàng lọc những bệnh mang tính phổ biến, tiền chi phí sàng lọc không quá nhiều, nếu ban đầu không được bảo hiểm chi trả thì nên hỗ trợ một phần. Khi quyền lợi thuộc về người dân họ sẽ chủ động nắm bắt và tìm hiểu vấn đề. Tuy nhiên, mặt trái của sàng lọc hiện đang là vấn đề khó khăn, chưa có cơ chế, cách thức nào để quản lý được đội ngũ y tế làm việc đó, tất cả vẫn dừng ở hình thức. Một khi dân trí còn nặng phải có con trai thì câu chuyện này vẫn luôn tồn tại.

Giải pháp khả thi để nâng cao chất lượng dân số

Có thể khẳng định, chiến lược dân số là một bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển đất nước; một trong những vấn đề hàng đầu tác động trực tiếp đến nền kinh tế - xã hội; là yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của con người. Nói cách khác, dân số vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Vì vậy, đầu tư cho công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình là đầu tư mang lại hiệu quả kinh tế trực tiếp rất cao.

Muốn vậy, công tác dân số phải chú trọng toàn diện các mặt quy mô, cơ cấu, phân bố, đặc biệt là chất lượng dân số và đặt trong mối quan hệ hữu cơ với các yếu tố kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh bảo đảm phát triển nhanh và bền vững. Chính sách dân số phải bảo đảm cân bằng, hài hòa giữa quyền và nghĩa vụ của mọi người dân; giữa việc tuyên truyền vận động, nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi với thực thi nghiêm kỷ cương pháp luật; giữa việc mở rộng, ứng dụng các kỹ thuật mới với việc nâng cao chất lượng dịch vụ, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân dân.

BTV Vũ Thủy: Thưa ông Bùi Sỹ Lợi, nhìn từ góc độ chính sách, để nâng cao chất lượng dân số theo ông cần tập trung vào những giải pháp gì?

Ông Bùi Sỹ Lợi: Có rất nhiều giải pháp để hành động đạt được chất lượng dân số. Tôi nêu ra 5 giải pháp căn bản như sau:

Đầu tiên, là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng theo đúng tinh thần Nghị quyết 21 của Trung ương. Đó là tinh thần căn cốt. Muốn chuyển biến theo tinh thần của Nghị quyết 21 cũng không đơn giản, phải biến thành hành động, chuyển biến nhận thức của các tổ chức Đảng trong từng cơ sở. Thông qua nghị quyết này, chúng ta phải sửa đổi chính sách, đầu tiên là phải ban hành được Luật Dân số.


Ảnh: Duy Thông

Thứ hai, là áp dụng các giải pháp y học, phát triển thành tựu khoa học của thế giới để kiểm soát bệnh tật, kiểm soát thai nhi trước sinh, dùng giải pháp tiến bộ khoa học để nâng cao chất lượng giống nòi là vấn đề quan trọng. Giống nòi là vấn đề gắn với sự tồn tại của dân tộc.

Thứ ba, là giải pháp kinh tế, có chính sách tiếp tục đầu tư để chăm sóc sức khỏe cho bà mẹ, trẻ em.

Thứ tư, bộ máy này phải gọn nhẹ, hiệu lực, hiệu quả và đạt mục tiêu.

Thứ năm, tiếp tục làm tốt công tác tuyên truyền. Chúng ta đạt được mục tiêu 10 năm qua về mức sinh thay thế là nhờ công tác tuyên truyền 30 năm trước. Bây giờ tuyên truyền làm sao nơi dân số tăng cao thì kiềm chế, dân số tăng thấp thì nâng lên, tránh mất cân bằng giới tính khi sinh. Muốn vậy, vai trò của Mặt trận Tổ quốc, của các tổ chức thành viên của Mặt trận, tổ chức xã hội nghề nghiệp..., phải đi từng ngõ, tuyên truyền tới từng nhà.

Đó là 5 giải pháp hết sức căn cơ mà chúng ta góp phần đạt được mục tiêu nâng cao chất lượng dân số.

BTV Vũ Thủy: Thưa GS. TS Nguyễn Đình Cử, dưới góc nhìn của chuyên gia, theo ông, giải pháp khả thi để nâng cao chất lượng dân số là gì?

GS.TS Nguyễn Đình Cử: Tôi cho rằng, đầu tiên là về nhận thức. Theo tôi nếu chúng ta thực hiện được Nghị quyết 21 một cách thành công, thì đến 2030 chúng ta đã thực hiện được một cuộc “cách mạng” thành công trong lĩnh vực sinh sản ở Việt Nam. Tôi cho đó là một cuộc cách mạng là vì, nếu đạt được muc tiêu đến năm 2030, chúng ta đã chuyển được từ kiểu sinh sản truyền thống, sinh sản tự nhiên sang một kiểu sinh sản văn minh, sinh sản hiện đại.


Ảnh: Duy Thông

Vì sao tôi nói như vậy? Chúng ta điểm lại những mục tiêu của Nghị quyết 21 đã nêu ra, chẳng hạn như: trước đây khi đi đến hôn nhân, không ai khám sức khỏe hay tư vấn, chỉ cần đến tuổi là xây dựng gia đình thôi. Chúng ta đặt mục tiêu đến năm 2030, 90% nam nữ kết hôn đi khám sức khỏe tiền hôn nhân và được tư vấn. Đó là một sự thay đổi rất mạnh mẽ.

Thứ hai là, phấn đấu đến năm 2030 hiện tượng tảo hôn phải giảm từ 50-60%. Trước đây, tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai rất thấp, thì đến năm 2030 chúng ta phải duy trì 75% các cặp hôn nhân sử dụng biện pháp tránh thai. Trước đây, sinh con không thực hiện tầm soát trước sinh và sơ sinh để phát hiện bệnh tật, tới năm 2030 phải đạt chỉ tiêu tầm soát trước sinh là 70%, sơ sinh là 90%.

Tất cả sự thay đổi đó, chuyển từ sinh sản về mặt số lượng sang chất lượng là chính. Điều này là đòi hỏi chúng ta phải thay đổi cả tập quán và hành vi của chúng ta. Đây là một cuộc cách mạng, mà cuộc cách mạng nào cũng khó khăn và gian khổ cả.

Tất cả các giải pháp đã nêu trong Nghị quyết 21 rất rõ ràng, chúng ta phải đẩy mạnh truyền thông, tăng cường sự lãnh đạo của các cấp chính quyền, bộ máy tổ chức, tăng cường kinh phí.

Theo tôi mấu chốt nhất là sự thay đổi nhận thức, điều này cũng không dễ dàng. Chúng ta biết, kế hoạch hóa gia đình chúng ta làm từ 1961 đến nay, tức là gần 60 năm rồi, nhưng 3 vùng của chúng ta vẫn chưa đạt mức sinh thay thế. Cho nên phải nói là sự chuyển biến này cũng rất là khó khăn.

Như Albert Einstein đã từng nói “Phá vỡ một quan niệm khó hơn phá vỡ một nguyên tử”, cho nên đòi hỏi chúng ta phải kiên trì và đẩy mạnh vấn đề này.

Về mặt chính sách, tôi chỉ bổ sung thêm về chính sách khuyến khích khám sức khỏe tiền hôn nhân. Việc đi khám sức khỏe tiền hôn nhân dù mang lại nhiều lợi ích nhưng để đi khám được là rất khó khăn, chúng ta có thể miễn phí hoặc khuyến khích bằng tiền, vật chất cho những người đi đầu khám sức khỏe tiền hôn nhân. Hoặc có thể đưa vào quy ước thôn xóm, bản làng là thanh niên trước khi kết hôn phải đi khám sức khỏe tiền hôn nhân. Đơn cử, ai tảo hôn thì cả làng không đến dự. Đưa vào những biện pháp dưới luật như vậy cũng là một điều tốt.

Nước ta hàng năm có khoảng 1,4 triệu người kết hôn, 1,6 triệu ca sinh. Do đó, việc khám sức khỏe tiền hôn nhân cho hàng triệu người, tầm soát trước sinh cho hàng triệu người hay sàng lọc cho hàng triệu ca sinh, thì y tế phải phát triển rất mạnh, vì hiện nay, nhiều địa phương vẫn chưa làm được điều này.

BTV Vũ Thủy: Thưa PGS.TS Nguyễn Duy Ánh: Nấc thang đầu tiên đánh giá chất lượng dân số chính là việc bảo đảm một thế hệ khỏe mạnh ngay từ khi chào đời. Ông có đề xuất giải pháp gì để nâng cao chất lượng dân số?


Ảnh: Duy Thông

PGS.TS Nguyễn Duy Ánh: Tôi cho rằng, nếu không có sự chỉ đạo, quyết liệt của Đảng sẽ không thể có chất lượng dân số tốt được. Chúng ta không thể không đưa việc sàng lọc cơ bản vào trong chính sách bảo hiểm để người dân tự thấy được quyền lợi mà họ được hưởng. Tại Bệnh viện Phụ sản Hà Nội, trong một năm đã phát hiện ra gần 1.000 trường hợp bắt buộc phải đình chỉ thai nghén. Bên cạnh đó, với những trường hợp lạm dụng sàng lọc để sàng lọc giới tính, sàng lọc về phôi thì cần đưa ra giải pháp, phải đưa vào Luật Dân số để khống chế việc mất cân bằng giới tính.

BTV Vũ Thủy: Thưa ông Nguyễn Ngọc Phương, dưới góc nhìn lập pháp, ông có thể chia sẻ một số giải pháp về nâng cao chất lượng dân số trong tình hình hiện nay?

Ông Nguyễn Ngọc Phương: Theo tôi, giải pháp về nâng cao chất lượng dân số trong tình hình hiện nay cần tập trung các giải pháp cơ bản sau:

Tập trung truyền thông các vấn đề duy trì vững chắc mức sinh thay thế, giảm chênh lệch mức sinh giữa các vùng, đối tượng; đưa tỉ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên, phấn đấu duy trì cơ cấu tuổi của dân số ở mức hợp lý. Bên cạnh đó, tận dụng hiệu quả cơ cấu dân số vàng, tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển đất nước nhanh, bền vững; thích ứng với già hóa dân số đẩy mạnh chăm sóc sức khỏe người cao tuổi; phân bố dân số hợp lý, đảm bảo hài hòa các quyền và nghĩa vụ của người di cư, tạo thuận lợi cho phát triển kinh tế xã hội, ứng phó với biến đổi khí hậu và bảo đảm quốc phòng, an ninh.

Đặc biệt, nâng cao chất lượng dân số cả về thế chất, trí tuệ và tinh thần, tạo nền tảng cho sự phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao góp phần phát triển đất nước nhanh, bền vững.

Có chính sách duy trì mức sinh hợp lý để có cơ cấu dân số đảm bảo sự phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng và mở rộng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe gia đình và phúc lợi xã hội; kiểm soát tỉ lệ giới tính khi sinh. Hỗ trợ cá nhân, gia đình có các vấn đề về bệnh di truyền, nâng cao phúc lợi xã hội, đảm bảo các dịch vụ xã hội cơ bản cho người di cư.

Đưa ra các hoạt động truyền thông giáo dục, chuyển đổi hành vi để tạo sự cam kết ủng hộ của các cấp uỷ đảng, chính quyền, các tổ chức xã hội về chương trình nâng cao chất lượng dân số. Tăng cường tuyên truyền tư vấn, hỗ trợ nâng cao sức khỏe thể chất, trí tuệ và tinh thần cho các nhóm đối tượng đặc biệt. Triển khai các mô hình cung cấp dịch vụ và vận động để tăng sự chấp nhận sàng lọc sơ sinh tại cộng đồng; đào tạo, cung cấp thiết bị cho các trung tâm tư vấn, dịch vụ dân số cấp tỉnh, thành phố.

Nâng cao tầm vóc, thể lực người Việt Nam và trình độ dân trí cũng là hai nhóm giải pháp để nâng cao chất lượng dân số trong thời điểm hiện tại. Đây là giải pháp yêu cầu có sự phối hợp tích cực của hệ thống y tế chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em, vị thành niên, người cao tuổi và sự tham gia của ngành giáo dục. Xây dựng và nâng cao đời sống văn hoá tinh thần, tăng cường các dịch vụ xã hội chủ yếu có ảnh hưởng tới chất lượng dân số, đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học ứng dụng phục vụ nâng cao chất lượng dân số.

Cung cấp dịch vụ tư vấn, khám sức khỏe trước khi kết hôn. Tổ chức cung cấp các dịch vụ tư vấn, khám sức khỏe trước khi kết hôn đến tuyến cơ sở để đáp ứng đầy đủ nhu cầu, thuận tiện với chất lượng ngày càng cao. Nhà nước hỗ trợ cho các đối tượng ưu tiên đặc thù theo từng giai đoạn. Hình thành mạng lưới các cơ sở cung cấp dịch vụ theo phân tuyến kỹ thuật. Chú trọng đầu tư, phát triển cơ sở cung cấp dịch vụ tại một số địa bàn trọng điểm. Đào tạo, đào tạo lại về kỹ năng, kỹ thuật và chuyên môn cho các cán bộ dân số, y tế theo quy định; cung cấp dịch vụ tầm soát, chẩn đoán, điều trị trước sinh và sơ sinh tại y tế cơ sở, chú trọng phổ cập, đưa dịch vụ đến tuyến xã. Mở rộng mạng lưới, nâng cao hiệu quả dịch vụ tầm soát, chẩn đoán và điều trị sớm bệnh tật trước sinh và sơ sinh phù hợp với toàn quốc và từng địa phương. Tăng cường kết nối, hợp tác các cơ sở cung cấp dịch vụ công lập và ngoài công lập.

BTV Vũ Thủy: Thưa quý vị và các bạn!

Nâng cao chất lượng dân số, đảm bảo nguồn nhân lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội luôn là một trong những mục tiêu phát triển hàng đầu của bất cứ quốc gia nào trên thế giới. Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến vấn đề nâng cao chất lượng dân số, điều này được thể hiện rõ trong Nghị quyết 47-NQ/TW ngày 22.3.2005 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình và Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 25.10.2017, Hội nghị lần thứ Sáu, Ban Chấp hành Trung ương Khóa XII về công tác dân số trong tình hình mới. Cụ thể hóa chủ trương của Đảng, Nhà nước, ngành Dân số đã và đang thực hiện đồng bộ các giải pháp nâng cao chất lượng dân số cả về thể chất, trí tuệ và tinh thần ngay từ giai đoạn đầu đời của một con người. Đây chính là chìa khóa vàng để mở ra cánh cửa phát triển bền vững.

Một lần nữa, trân trọng cảm ơn các vị khách quý đã tham gia Tọa đàm ngày hôm nay và mong được gặp lại trong lần đối thoại lần sau.

Xin trân trọng cảm ơn!

ĐBND