Theo văn bản, Toà án nhân dân tối cao nhận được Công văn số 661/CV-ĐBND ngày 23.11.2023 của Báo Đại biểu Nhân dân chuyển đơn của bà Cao Thị Sáu có nội dung: Bà Sáu cho rằng Toà án nhân dân tối cao chưa xem xét đơn đề nghị giám đốc thẩm của bà Sáu đối với Bản án dân sự phúc thẩm số 109/2013/DS-PT ngày 20.6.2013 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội về vụ án "Tranh chấp hợp đồng dịch vụ và hợp đồng vay tài sản" giữa nguyên đơn là bà Sáu với bị đơn là bà Nguyễn Thị Nghĩa và những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan khác.
Toà án nhân dân tối cao trân trọng thông báo để quý Báo biết: Tại Thông báo giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm số 221/TB-GĐKTII ngày 23.10.2015, Toà án nhân dân tối cao trả lời bà Sáu là không có căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên.
Cùng với đó, Toà án nhân dân tối cao chuyển Báo Đại biểu Nhân dân Thông báo số 221/TB-GĐKTII ngày 23.10.2015 giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm gửi Bà Cao Thị Sáu (địa chỉ: Số 9, ngõ Cẩm Văn, phố Tôn Đức Thắng, phường Hàng Bột, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội).
Văn bản ghi, Toà án nhân dân tối cao nhận được đơn của bà Cao Thị Sáu đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án dân sự phúc thẩm số 109/2013/DSPT ngày 20.6.2013 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội, về vụ án “Tranh chấp hợp đồng dịch vụ và hợp đồng vay tài sản” giữa nguyên đơn là bà với bị đơn là bà Nguyễn Thị Nghĩa (tên gọi khác là Thọ) và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Văn Tuyền.
Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án và đơn đề nghị của bà, Toà án nhân dân tối cao có ý kiến như sau: Bà Sáu khởi kiện yêu cầu bà Nghĩa trả nợ tiền dịch vụ uỷ thác là 56.650.000 đồng và tiền vay là 5.569.059.000 đồng. Bà xuất trình 3 tài liệu là: Văn bản đề ngày 14.12.2006; Biên bản đối chiếu công nợ đề ngày 28.2.2007; Văn bản đề ngày 3.2.2008.
Tại văn bản đề ngày 14.12.2006 là văn bản viết tay của bà Nghĩa ghi rõ “Còn nợ của chị Sáu 1.818.500.000 đồng”. Bà Nghĩa và bà Sáu đều xác nhận có khoản nợ này. Bà Nghĩa cho rằng đã thanh toán khoản nợ này 6 lần. Bà Sáu cho rằng 6 lần thanh toán số tiền bà Nghĩa đưa để bà Sáu trả nợ cho người khác hộ bà Nghĩa, nhưng bà Sáu không xuất trình được chứng cứ chứng minh nợ khác như thế nào. Do vậy, Toà án các cấp xác nhận bà Nghĩa đã trả nợ hết khoản tiền 1.818.500.000 đồng theo biên nhận ngày 14.12.2006 là có căn cứ.
Văn bản có tiêu đề “Biên bản đối chiếu công nợ” đề ngày 28.2.2007 có nội dung số tiền nợ là 6.553.700 đồng. Đây là văn bản chữ in có hình thức một bên là Công ty Sơn Phương một bên là bà Nghĩa, chỉ có chữ ký và chữ viết “Nguyễn Thị Nghĩa” do ông Tuyền (chồng bà Nghĩa) viết. Văn bản này ghi là “Kể từ năm 2002 đến 28.2.2007” nhưng không nhắc gì đến khoản nợ 1.818.500.000 đồng đã tính toán trước đó.
Văn bản có tiêu đề “Năm 2008 Cô Thọ” có nội dung do chính bà viết “Tổng cô Thọ nợ 5.599.059.000 đồng” thì cũng chỉ có chữ của ông Tuyền ghi “Ngày 3.2.2008, Tuyền đã nhận”.
Với tình hình chứng cứ như trên, Toàn án cấp sơ thẩm và phúc thẩm đều cho rằng chưa đủ cơ sở khách quan, chắc chắn xác định bà Nghĩa nợ bà Sáu 5.599.059.000 đồng là quyết định hợp lý.
Toà án nhân dân tối cao xét thấy không có căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với bản án dân sự phúc thẩm trên.
Trước đó, Báo Đại biểu Nhân dân nhận được đơn thư của bà Cao Thị Sáu (sinh năm 1959, địa chỉ tại: Lô C4, số 15 Đông Quan, phường Quan Hoa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội) là Nguyên đơn trong vụ án “Tranh chấp hợp đồng dịch vụ và hợp đồng vay tài sản” đã được Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội thụ lý giải quyết, ra Thông báo thụ lý vụ án phúc thẩm số 52/2012/TLPT-DS ngày 17.10.2012. Đến ngày 20.6.2013, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội đã xét xử và ra bản án phúc thẩm số 109/2013/DS-PT ngày 20.6.2013.
Theo đơn, bà Cao Thị Sáu cho biết, kể từ khi Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội đã xét xử và ra bản án phúc thẩm số 109/2013/DS-PT ngày 20.6.2013, bà Sáu đã 11 lần làm đơn Đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với bản án phúc thẩm số 109/2013/DS-PT ngày 20.6.2013 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội đã có hiệu lực pháp luật với lý do “Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án; gây thiệt hại tới quyền và lợi ích hợp pháp của bà Sáu”.
Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại bà Sáu vẫn chưa nhận được bất kỳ một thông báo nào của Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội.
Ngày 22.12.2023, Viện kiểm sát nhân dân tối cao có văn bản số 5511/VKSTC-V9 do Vụ trưởng Vụ kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự, hôn nhân và gia đình Nguyễn Tiến Sơn ký gửi Báo Đại biểu Nhân dân.
Theo văn bản, năm 2014 Viện kiểm sát nhân dân tối cao có nhận được đơn của bà Cao Thị Sáu đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Ngày 11.8.2014, Viện kiểm sát đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Ngày 11.8.2014, Viện kiểm sát nhân dân tối cao tại Hà Nội chuyển hồ sơ vụ án để xem xét, giải quyết theo thẩm quyền. Thời điểm đó, Viện kiểm sát nhân dân tối cao không nhận được hồ sơ vụ án và phản hồi về lý do không chuyển hồ sơ vụ án của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao.
Nay, bà Sáu tiếp tục có đơn đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án phúc thẩm dân sự số 109/2013/DS-PT ngày 20.6.2013 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội, nhưng thời hạn để kháng nghị đã hết nên Viện kiểm sát nhân dân tối cao không xem xét, giải quyết theo đơn đề nghị của bà Sáu.