Tổ chim ưng
Truyện ngắn của DOLGOIN SEVACMID (Mông Cổ)

Một con chim hùng vĩ, bộ lông hung hung, mỏ khoằm khoằm, đôi cánh giang rộng và những vuốt sắc cắm ngập vào một chú cừu con.
Trước cái hiện vật hiếm có của nhà bảo tàng trung tâm ở thủ đô ấy, bao giờ cũng thấy đông người. Không phải chỉ một lần, tôi đã thấy khách tham quan ngắm nó với vẻ thán phục không giấu giếm và thốt lên những tiếng trầm trồ: “Đại bàng đấy!”
Kỳ thực, nó vẫn chưa phải là đại bàng thực thụ, mà là một chú chim ưng non, vốn trú ngụ trên những mỏm đá chọc trời ở cao nguyên Gobi thuộc triền núi Altai.
Thường thường, cùng với làn gió đầu tiên, nó cất cánh vút lên mãi tận trời xanh và suốt ngày bay lượn trên đó. Nó chỉ ở trong tổ vào lúc tảng sáng và chiều tối, khi khí trời mát mẻ, dễ chịu. Hiếm người có cái may mắn được trông thấy chim ưng ở khoảng cách gần. Muốn săn chim ưng, phải rình chờ nó ở tận trên đỉnh núi từ lúc mặt trời còn chưa mọc, và phải đến gần nó một cách thật thận trọng.
Chim ưng có một kích thước đáng kinh ngạc: hai cánh giang ra có thể rộng tới hai mét rưỡi. Đầu và ức màu xám nhạt, lưng sẫm hơn. Mùa nào cũng vậy, chim ưng chuyên sống trên những mỏm đá cao ngất từng mây, làm tổ trong những hang sâu hóc hiểm.
Theo lời đồn đại trong dân gian thì chim ưng ăn đá núi, và dạ dày của nó hình như có thể tiêu hóa bất kỳ một thứ gì. Trong các công trình nghiên cứu khoa học, có thể đọc được rằng chim ưng thuộc loại chim rất nguy hiểm, nó đặc biệt thích ăn thịt những loài thú móng guốc. Trên thực tế, không bao giờ nó săn đuổi những con vật sống mà chỉ ăn thịt con vật đã chết. Nói cho đúng hơn, chim ưng chỉ xài bộ xương thú. Thành thử sự quan sát của dân gian lại gần với sự thật hơn là những suy luận của các nhà khoa học.
Còn cái hiện vật độc đáo trưng bày ở nhà bảo tàng ấy, thì rõ ràng là người làm ra nó có ý mô tả một con chim ưng sà xuống một con cừu đã chết như thế nào.
Cuộc sống đầy bí ẩn của loài chim hùng mạnh đó còn được phản ánh trong rất nhiều huyền thoại. Một trong số những huyền thoại có kể rằng người nào ăn dạ dày chim ưng thì sẽ chữa khỏi bệnh khối u ác tính.
***
Tôi nhớ đến những điều đó trong khi tham gia một cuộc khảo sát khoa học ở Gobi thuộc bên này dãy Altai. Chả là tôi có một người bạn mắc chứng bệnh hiểm nghèo trên, và tôi rất muốn giúp anh ấy. Vì thế, tôi đã vô cùng mừng rỡ khi phát hiện ra một vệt dài như vệt vôi ở cái cửa hang sâu hút mở ra trên vách đá dựng đứng: dấu vết đó chỉ có thể là do chim ưng để lại.
Tôi đã mất cả hai ngày để phát hiện dấu vết chim ưng, và bây giờ tôi thấy thời gian mình bỏ ra không đến nỗi uổng phí.
Thoạt đầu, mọi chuyện có vẻ như trót lọt cả: ở độ cao trên dưới một trăm mét, chỗ tận cùng của bức tường đá, cửa hang đã hiện ra. Tôi đoán rằng tổ chim ưng phải nằm trong đó.
Hai ông bạn đồng nghiệp trẻ tuổi của tôi sốt sắng quyết định trèo lên đó, nhưng chỉ được nửa đường, họ phải bỏ dở, đem về một đụn chăn dạ, vải, một móng chân ngựa nhặt được trong một hốc đá. Có lẽ con chim ưng đã đánh rơi những thứ đó trên đường về tổ.
Chăm chú quan sát thêm một lần nữa, tôi phát hiện ra một chỗ đá bằng phẳng ở trên cửa hang khoảng hai chục mét. Ở đó hẳn là “bàn tiệc” của chim ưng, bởi vì chung quanh bãi đá có màu trăng trắng. Từ đó có đến năm sáu vệt đá vôi tỏa ra bốn phía.
Chúng tôi rất muốn đến xem tổ chim ưng, đặc biệt là từ trước đến nay chưa thấy một ai mô tả nó ra làm sao, song, trèo tới đó là điều không thể thực hiện nổi.
Trong khi chúng tôi còn đang vắt óc tìm cách giải quyết, mặt trời ban trưa đã ló ra một lát, trời nắng như đổ lửa. Giữa lúc đó, chúng tôi trông thấy chim ưng. Nó thò cổ ra từ một khe đá ở cao hơn cửa hang một chút rồi đột ngột nhào xuống, được một lát nó lại vút lên cao, lượn một vòng quanh đỉnh núi rồi biến mất.
Cả cái tổ chim ưng lẫn chủ của nó đã bị phát hiện. Xem ra như thế cũng đã là một niềm hạnh phúc đấy chứ! Cũng có thể chúng tôi sẽ không bắt được chim ưng, nhưng riêng cái tổ của nó đã đủ để làm sang cho bất kỳ một bộ sưu tập nào! Sau khi quyết định sẽ trở lại đây vào sáng sớm ngày mai, chúng tôi rút về chỗ tạm trú của mình.
Quanh đống lửa trại thật sáng sủa, ấm áp. Thảng hoặc từ những khe núi lại vọng đến một âm thanh khô khốc, không biết phát ra từ phía nào, có cảm tưởng như từ bốn phía dội về.
- Ai kêu thế nhỉ? - Tôi nghe thấy giọng nói của ai đó.
- Gấu Gobi đấy, thấy ở đây có ánh lửa, nó mò đến - Một người nói vọng ra.
- Lạ không chứ! Cát bám đầy cả miệng bát tôi đây này - Anh chàng chuyên nhồi lông thú kinh ngạc…
- Lấy giấy mà lau, đừng rửa, nước sắp hết rồi - Anh đầu bếp đáp lại người kia bằng một giọng trầm.
Mọi người đã đi nằm, nhưng xem ra chẳng ai muốn ngủ. Tôi nghe thấy tiếng thì thầm: “Thử kể xem nào, hôm nay cậu thấy gì thú vị đấy?”.
“Kiểu này là họ lại thì thào tán gẫu đến nửa đêm đây… Suốt ngày lang thang vất vả trên các mỏm đá đối với họ chưa thấm vào đâu hay sao” - Tôi thầm nghĩ thế rồi thiếp đi lúc nào không hay.
Trời chưa sáng, tôi đã có mặt trên đỉnh núi mai phục chim ưng. Khi những tia nắng đầu tiên vừa mới chạm vào mỏm đá, tôi đã phát hiện ra: con chim ưng đang đậu ở cửa hang. Tôi vừa định tiến đến gần hơn thì nó đã bay vụt đi lập tức. Một loài chim thính nhạy đến lạ lùng. Đầu tiên, nó nhắm thẳng vào tôi bay tới, nhưng khẩu súng của tôi bị hóc, thế là tôi đành bỏ lỡ một cơ hội may mắn.
Chẳng có việc gì làm, tôi bèn quan sát đỉnh núi một lần nữa và phát hiện ra một cái hang mới. Ở cửa hang có một vật gì đó. “Chẳng lẽ đấy lại là một cái tổ?” Nghĩ thế, tôi bò lại gần hơn và lấy ống nhòm ra.
Đấy không phải tổ chim hay một bụi cây, mà là một cái gì đó rất lạ, rất giống một cái bọc. “Cái gì thế kia?” - tôi thấy đáng tò mò quá và bắt đầu nhòm kỹ hơn vào vật đó, nhưng vẫn không làm sao nhận biết được đích xác nó là cái gì. Tính từ chân ghềnh đá, cái vật này phải ở độ cao khoảng hai trăm mét. Con người không thể nào leo tới đó được. “Hay là mình vòng quanh ghềnh đá và thử leo lên từ triền núi bên kia?” - nghĩ vậy, nhưng tôi cũng biết ngay là làm việc đó vô cùng khó khăn.
Muốn thế, trước hết phải tụt xuống mỏm đá tôi đang ở rồi vượt năm, sáu kilômét, đi theo hướng tây đến khe núi, từ đó phải trèo qua một vách đá, men theo sống núi tới chỗ có hang; song, tôi lại không hề có một cơ sở nào để tin rằng sống núi đó nối liền với đỉnh cao kia.
Tất cả như đều nói lên rằng bàn chân con người chưa hề đặt tới nơi đó. Vậy thì làm cách nào để đến được chỗ cái bọc bí ẩn kia?… Tôi nghiên cứu tất cả các khả năng và vẫn quyết định lên đường. Khi lên đến sống núi, tôi thấy quả là nó không nối liền với đỉnh cao kia, song từ đó tôi lại phát hiện được một dãy núi khác chạy đến chỗ đó. Tuy nhiên, theo lối đi này, phải mất đến nửa ngày đường.
Lúc đó hãy còn sớm nên tôi vẫn quyết định chinh phục cao điểm. Mồ hôi mồ kê nhễ nhại, tôi leo lên một đỉnh núi, từ đó căng mắt nhìn cái vật bí ẩn kia… Lúc này trông nó giống như một bức tượng, nhưng chân đế khá đồ sộ; càng lên gần đầu, bức tượng càng nhỏ lại, còn ở cổ thấy có cái gì đó thò ra, giống như bàn tay...
Có một vệt đường hẹp dẫn lên đỉnh núi. Tôi có cảm giác là nếu đến được con đường mòn đó, sẽ tới được mục tiêu.
Việc đi lại nặng nhọc không thể chịu được. Tôi không đi, mà lại bò lê bò la từ hòn đá này sang hòn đá khác, lúc lên đến mỏm núi cao nhất thì bóng đã đổ dài ra, nhắc nhở rằng ông mặt trời không hề đứng yên một chỗ.
Trước mặt tôi, một bức tranh hùng vĩ mở ra. Ở chỗ này vẫn còn nhiều nắng. Từ phía cao nguyên Gobi, một làn gió êm dịu thổi về, nhưng đã hơi lành lạnh. Tôi những muốn đứng lại đây lâu hơn để thưởng thức vẻ đẹp của quê hương, nhưng thời gian không còn được là bao. Còn phải đi tiếp, bởi vì cho đến lúc mặt trời lặn, không những phải lên đến tận cái hang bí ẩn kia, mà còn phải quay về cho kịp. Nghỉ lấy hơi được một lát, tôi lại vội vàng trèo lên.
Được một chốc, tôi phát hiện ra vệt đường lờ mờ, có lẽ nó dẫn tới cửa hang. Đi theo lối mòn này chẳng được bao lâu, nó đã biến mất, nhưng xét ra thì mục tiêu đã ở gần đâu đây, bởi vì cái mỏm đá tôi ngồi hồi sáng đã hiện ra ở mé núi bên dưới. Ngay lúc đó tôi đã nom rõ một phần cái vật bí ẩn trên vách đá kia.

Chỉ cần bước lên nửa bước, tôi đã có thể trông rõ toàn bộ vật đó. Bỗng tôi không thể xê dịch được chút nào nữa, việc đó có thể làm cho tôi rơi xuống đáy vực, nơi ngoài lũ chim ưng ra sẽ chẳng còn ai tìm thấy xác tôi.
Một nỗi sợ bao trùm. Tôi nắm một cách thận trọng, tay trái bíu vào một mỏm đá, tay phải cầm ống nhòm, chỉ thò mỗi cái đầu ra để nhìn cái phần thấy được của vật đó. Đúng như tôi đã đoán - đó là một chiếc bao tải.
Như vậy là con chim ưng đã tha chiếc bao tải này từ một nơi nào đó về đây. Loài vật vốn có một điểm yếu như thế đấy. Tôi có nghe người ta đồn rằng ở tổ chim diều mướp thấy có bao nhiêu thứ linh tinh, đến nỗi khó mà tin được rằng chính con diều mướp đã tha tất cả những thứ đó về. Người ta còn nói rằng có khi tìm thấy ở đấy cả que thông điếu nữa.
“Mình đã giết thời gian một cách vô ích… Giá mình làm nốt cái việc thống kê số đầu thú móng guốc thì có tốt hơn không, chỉ sáng mai là mình đã có thể đi Khatansundan được rồi - tôi thầm nghĩ một cách tiếc rẻ - Chẳng lẽ không có cách nào lên đó thật sao?”
Lúc quay trở về, tôi bỗng phát hiện ra một vệt đường mòn rộng không quá sáu mươi phân dẫn lên đỉnh núi đá. Đi theo con đường này là một việc cực kỳ nguy hiểm: một bên là vách đá dựng đứng, trơn lì, một bên là vực sâu không đáy. Chỉ cần sẩy chân lỡ bước một cái là không sao tránh khỏi cái chết.
“Đã đến tận đây, chỉ còn cách mục tiêu vài mét mà lại phải bỏ về với hai bàn tay trắng à… Rồi sau này suốt đời sẽ còn phải ân hận” - nghĩ thế, tôi quyết định cứ bò lên tiếp. Sau một ngày phơi nắng, đá vẫn chưa kịp nguội đi, bỏng rát không chịu nổi, nhưng vẫn phải mắm môi mắm lợi mà đi. Tự trong lòng, tôi không muốn rời khẩu súng một chút nào, nhưng chính nó lúc này đã trở nên vướng víu, đành phải bỏ lại vậy.
Trước khi nhích lên một bước, tôi ném một hòn đá xem có động tĩnh gì không - dù sao, nỗi sợ vẫn còn ngự trị trong tôi.
Trèo lên với sự thận trọng của một con thỏ đế, rất may là không bị rơi xuống vực, và cuối cùng, tôi đã đến trước cái bọc bí ẩn. Ở đấy, tôi nhận ra là nó được khâu bằng da bò. Không hiểu nó được nhồi nhét những gì mà chặt cứng cả lên, nom từa tựa một con ngỗng nhồi sắp sửa bị nứt tung ra. Hình như nó bị bỏ lại đây từ lâu lắm, bởi vì da bị sờn mòn hết cả và đã ngả sang màu đất sét. Nó nằm ở một chỗ rất khó leo tới, rất khó lấy xuống, và cạnh đó là cửa hang. Trong đó chứa những gì nhỉ? Thú thực là tôi cũng thấy sờ sợ. Tôi ngoái đầu nhìn về chỗ bỏ lại khẩu súng và thấy bớt sợ hơn một chút, tuy rằng khẩu súng đã chẳng còn giúp gì tôi được nữa.
Bám vào gờ đá, tôi bật lên và đến được chỗ bãi đá bằng phẳng. Cái bọc đó ở ngay trước cửa hang. Liền đó, từ trong hang, một con chim bay vù ra, tôi bị bất ngờ đến rùng cả mình, nhưng vẫn không hề nhúc nhích: chẳng còn né tránh vào đâu được nữa.
Tôi rút dao cầm tay rồi ghé nhìn vào hang… Giá như có chỗ để chạy, tôi đã ba chân bốn cẳng phóng đi rồi: chĩa thẳng vào tôi là một cánh tay xương xẩu. Tôi bị ép lại từ bốn phía sau: sau lưng là vực sâu vô đáy, mà trước mặt thì…
Tôi nghiến chặt hai hàm răng và tự trấn an: trước mặt mình đâu phải là một quái vật đang sống! Tôi bèn nhích lên một bước nữa và lại nhìn kỹ vào trong hang… Ở ngay cửa hang có một bộ xương người. Xương lồng ngực và xương ống tay nom rõ rành rành. Xương tay vẫn còn nguyên vẹn, thậm chí các khớp vẫn còn chưa bị rời ra. Cánh tay phải vươn một cách chới với, trỏ về phía chiếc túi da và giữ nguyên tư thế đó trên mặt đá. Hình như người này đã trút hơi thở cuối cùng trong khi còn muốn với tay đến chiếc túi.
Tôi cố gắng giữ bình tĩnh - đấy chẳng qua chỉ là một bộ xương, vậy thì mình sợ cái gì nào? - tuy vậy tôi vẫn không hết sợ. Cả cái túi da lúc ấy đối với tôi cũng trở thành một sinh vật. Xét trên mọi phương diện thì cánh tay xương xẩu vươn dài kia là… Vâng, trước mắt tôi, cái cửa hang đen ngòm như mõm một con quái vật chỉ chực nuốt chửng tôi vào bất cứ lúc nào…
“Không có trở ngại nào có thể buộc người đàn ông bất lực” - tôi tự khích lệ rồi tiến thêm một bước nữa và xòe diêm. Cái hang này hóa ra cũng không sâu lắm, tôi mới kịp nhận ra một vài thứ gì đó giống như vật dụng trong nhà thì que diêm cháy hết, thế là tất cả lại chìm vào bóng tối.
“Trong hang này có vẻ như không còn sinh vật nào đâu… Mạnh bạo lên!” - tôi ra lệnh cho mình và lục lọi các túi định tìm giấy làm đóm, đến lúc này mới chợt nhớ ra chiếc đèn pin, vật bất ly thân của tôi.
Bây giờ thì tất cả hiện lên rõ như lòng bàn tay… Tôi lập tức nhận ra một chiếc ấm đồng, một cái bát gỗ, một cái hòm gỗ và một cái chảo gang nho nhỏ.
Tôi thận trọng mở nắp hòm gỗ, thấy có một cuốn sổ dày, đóng từ những tờ giấy bản. Trở ra cửa hang, tôi lập tức mở cuốn sổ xem sao, nhưng đã lâu ngày, giấy bết vào với nhau, tay đụng vào đâu chỉ chực mủn ra ở đấy. Văn bản được viết bằng bút chì, rất nắn nót, nhưng là chữ Hán nên rất khó đọc.
Phải vội trở về địa điểm đóng trại trước khi trời tối, tôi chỉ kịp đọc trang đầu và trang cuối…
Khỏi nói phải khó khăn thế nào tôi mới hiểu được nội dung văn bản. Trang đầu được viết như thế này:
“Ngày thứ hai thượng tuần tháng lập thu. Năm Dần, tức là năm thứ hai mươi ba dưới sự trị vì của thiên tử.
… Trên đất quê hương, máu lại chảy. Biển máu chỉ chực loang ra khắp mặt đất. Anh em thân thích đã ly tán hết cả. Trẻ con bơ vơ. Bóng đen chết chóc hoang tàn bao phủ khắp quê hương.
Trong những ngày ảm đạm này, tôi quyết định dù thế nào chăng nữa cũng phải ẩn mình đi để mưu đem lại một chút công ích, khi quê hương chỉ còn có sự yên bình ngự trị.
Không! Tôi không hề từ bỏ quê hương, tôi chỉ tìm đến nơi không có bóng người và đã chọn được chốn này để tạm trú thân. Hỡi rừng già, xin hãy lắng nghe những điều tôi sắp kể…”
Và văn bản được kết thúc bằng những lời sau:
“Sự sống đang dần dần cạn kiệt trong tôi, nhưng những cái mà tôi đã hiến dâng cả cuộc đời thì còn mãi trong ước mơ của tất cả những ai cực khổ bần hàn.
Tôi cảm thấy mình đã gần kề cái chết, tôi đã đem treo lên chỗ dễ thấy nhất báu vật lớn nhất của tôi, thứ mà tôi hằng dày công gìn giữ suốt bấy nhiêu năm trời. Tôi đã giữ gìn nó, cùng với việc chờ đợi những ngày vui tươi xán lạn, những ngày yên bình.
Dù có là ai chăng nữa, song đã tìm được chiếc túi này của tôi, xin hãy gắng hiểu hết những điều đó và làm sao để những thứ chứa trong túi trở thành tài sản của nhân dân nước tôi”.
Tôi rất mừng trước khám phá này. Còn gì bằng. Trong bọc này có thể là những thứ chưa hề có ai biết đến. Tôi chỉ muốn mở ngay túi da ra xem, nhưng lại quyết định chờ có người làm chứng thì tốt hơn, do vậy tôi lên đường trở về trại.
***
- Đấy là toàn bộ tin tức trong ngày của tôi - Tôi kết luận. Một làn gió đêm nhẹ nhõm lay động căn lều. Đống lửa trại của chúng tôi đã cháy hết, chỉ còn những hòn than dưới lớp tàn tro vẫn lấp lóe mờ ảo trong đêm.
- Chắc chắn là chúng ta sẽ gặp một hiện vật cực hiếm. Làm thế nào để sáng mai tớ cùng đi với các cậu được nhỉ… Tiếc thật, những bộ lông chim còn chưa kịp tẩm thuốc khắp lượt đây này… Làm thế nào bây giờ nhỉ? - Tôi nghe thấy thế. Ngay lúc đó là tiếng trả lời:
- Đã đến lúc xẻo mũi cậu đi được rồi đấy. Cái gì cũng phải làm cho kịp thời! Nếu cậu quan tâm đến thế thì bây giờ đốt nến lên mà làm đi…
Từ đỉnh núi, vầng trăng khuyết nhô lên chiếu sáng cả dãy núi. Trong lều im lặng được một lúc, hình như chưa ai chịu ngủ: mọi người đều sốt ruột mong trời mau sáng để còn lên núi đem về chiếc túi bí ẩn kia.
Những cuộc lang thang ban ngày đã làm tôi thấm mệt. Và tôi thiếp đi trong khi còn nghe thấy những người bạn trẻ thì thào như từ một cõi nào xa lắm: “Mai phải dậy sớm đấy nhé”.
… Khi tôi tỉnh dậy, trời vừa chớm sáng.
ĐĂNG BẨY dịch