Đã là tài liệu lưu trữ trước tiên phải thực hiện theo pháp luật về lưu trữ
Trên thực tế, một số luật hiện hành có quy định đặc thù về lưu trữ liên quan đến chế độ bảo quản, thời hạn lưu trữ, cấp bản sao. Nếu bãi bỏ quy định về lưu trữ tại các luật này để thực hiện thống nhất theo quy định Luật Lưu trữ sẽ không phù hợp với tính chất đặc thù trong hoạt động lưu trữ của một số bộ, ngành và khó bảo đảm tính khả thi. Nêu vấn đề này, Thường trực Ủy ban Pháp luật cho biết, trong thời gian qua, với vai trò là cơ quan chủ trì thẩm tra dự án Luật, Ủy ban đã rà soát các tiêu chí về nội dung và hình thức để xác định tài liệu lưu trữ có giá trị đặc biệt, tránh trùng lắp với các tiêu chí xác định bảo vật quốc gia, bảo đảm tính toàn diện, phù hợp với tính chất của tài liệu lưu trữ.
Liên quan đến quy định về quản lý, phát huy giá trị của tài liệu lưu trữ được công nhận là bảo vật quốc gia, Thường trực Ủy ban Pháp luật nhận thấy, tài liệu lưu trữ là đối tượng điều chỉnh của Luật Lưu trữ nên việc thực hiện các nghiệp vụ lưu trữ, trong đó có hoạt động bảo vệ, bảo quản và phát huy giá trị tài liệu lưu trữ phải tuân thủ quy định của Luật Lưu trữ; trường hợp tài liệu lưu trữ được công nhận là bảo vật quốc gia, thì ngoài việc thực hiện theo quy định của Luật Lưu trữ, còn phải tuân thủ quy định của Luật Di sản văn hóa.
Tiếp thu ý kiến của các đại biểu Quốc hội, trên cơ sở kết luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại Phiên họp thứ 30, Thường trực Ủy ban Pháp luật đề nghị bổ sung khoản 5 vào Điều 38 của dự thảo luật nội dung: “Tài liệu lưu trữ có giá trị đặc biệt được quản lý, sử dụng và phát huy giá trị theo quy định của luật này; trường hợp được công nhận, ghi danh là bảo vật quốc gia hoặc danh hiệu khác theo quy định của Luật Di sản văn hóa thì còn phải thực hiện theo quy định của Luật Di sản văn hóa”.
Với quy định tại khoản 5 Điều 38, ĐBQH Phan Viết Lượng (Bình Phước) cho rằng, có thể hiểu việc quản lý, bảo vệ, phát huy di sản, tài liệu lưu trữ đặc biệt là bảo vật quốc gia được thực hiện theo cả Luật Lưu trữ và Luật Di sản văn hóa, là chưa tường minh và có thể chồng chéo, không thống nhất, gây vướng mắc trong thực hiện.
Mặt khác, đại biểu Phan Viết Lượng cũng chỉ rõ, tại khoản 2, Điều 24 dự thảo Luật Lưu trữ (sửa đổi) quy định thẩm quyền của các bộ, ngành liên quan và UBND cấp tỉnh về mang tài liệu lưu trữ của Nhà nước ra nước ngoài, chưa có quy định chuyên biệt về mang tài liệu lưu trữ đặc biệt là bảo vật quốc gia, ra nước ngoài. Trong khi đó, khoản 2, Điều 44 Luật Di sản văn hóa hiện hành quy định, Thủ tướng Chính phủ quyết định đưa bảo vật quốc gia ra nước ngoài; và khi sửa đổi luật này trong thời gian tới cũng sẽ sửa đổi, bổ sung những quy định liên quan đến bảo vệ, phát huy bảo vật quốc gia. Do vậy, đại biểu cho rằng, cần rà soát và quy định rõ hơn về thẩm quyền quản lý, bảo vệ, phát huy giá trị tài liệu lưu trữ có giá trị đặc biệt là bảo vật quốc gia; quy định rõ hơn khi nào, với nội dung, biện pháp nào thì áp dụng cả hai luật, khi nào chỉ áp dụng quy định Luật Di sản văn hóa, không áp dụng Luật Lưu trữ.
Liên quan đến vấn đề này, ĐBQH Nguyễn Trường Giang (Đắk Nông) cho rằng, về nguyên tắc, đã là tài liệu lưu trữ trước tiên phải thực hiện theo quy định của pháp luật lưu trữ. Do vậy, việc phát huy quản lý, sử dụng và phát huy tài liệu lưu trữ cũng phải thực hiện theo quy định pháp luật lưu trữ. “Tài liệu lưu trữ dù được công nhận là tài liệu lưu trữ có giá trị đặc biệt bản chất vẫn là tài liệu lưu trữ, do đó việc quản lý, sử dụng và phát huy giá trị trước tiên phải thực hiện theo quy định của pháp luật lưu trữ”, đại biểu Nguyễn Trường Giang nói.
Mặt khác, theo đại biểu, việc ghi danh và công nhận tài liệu lưu trữ đặc biệt không chỉ cùng được điều chỉnh bởi Luật Di sản văn hóa, mà trong Luật Thư viện hiện hành cũng quy định về ghi danh và công nhận tài liệu đặc biệt theo quy định của Luật này. Do vậy, đại biểu Nguyễn Trường Giang đề nghị, quy định tại khoản 5, Điều 38 dự thảo Luật nên mở rộng theo hướng trường hợp nào tài liệu lưu trữ được công nhận, ghi danh bởi luật có liên quan thì thực hiện theo quy định của luật có liên quan.
Cần chặt chẽ hơn về tổ chức nộp tài liệu vào lưu trữ lịch sử
Bên cạnh việc rà soát, hoàn thiện quy định về nguyên tắc áp dụng pháp luật tại Điều 3 và quy định về tài liệu lưu trữ có giá trị đặc biệt tại Điều 38 của dự thảo luật, ĐBQH Lý Thị Lan (Hà Giang) đề nghị, tiếp tục rà soát, điều chỉnh, bổ sung một số điều để bảo đảm tính chặt chẽ, thuận lợi cho việc thực thi sau này.
Trong đó, đối với nội dung hủy tài liệu lưu trữ, tại Điểm b, Khoản 3, Điều 16, dự thảo luật quy định: “Người đứng đầu cơ quan, tổ chức không thuộc trường hợp nộp tài liệu vào lưu trữ lịch sử quyết định hủy tài liệu hết giá trị theo quy định”. Đối với quy định này, đại biểu đề nghị, bổ sung và sửa thành “người đứng đầu cơ quan, tổ chức không thuộc trường hợp nộp tài liệu vào lưu trữ lịch sử quyết định hủy tài liệu hết giá trị sau khi có ý kiến thẩm định của cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp”. Lý giải về đề xuất này, đại biểu Lý Thị Lan nêu rõ, các cơ quan, tổ chức không thuộc trường hợp nộp tài liệu vào lưu trữ lịch sử thường không có người làm lưu trữ chuyên trách nên trước khi hủy tài liệu cần có ý kiến thẩm định của cơ quan quản lý cấp trên để tránh việc hủy tài liệu khi tài liệu vẫn còn giá trị.
Đối với nội dung cơ quan, tổ chức nộp tài liệu vào lưu trữ lịch sử của Nhà nước, tại Điểm d, Khoản 2, Điều 18, dự thảo luật quy định “đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc UBND cấp tỉnh, cơ quan, tổ chức của trung ương được tổ chức hoạt động theo ngành dọc ở cấp tỉnh, cấp huyện; doanh nghiệp nhà nước do Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định thành lập”. Đối với quy định này, đại biểu cho rằng, cần làm rõ các doanh nghiệp như viễn thông, bưu điện, công ty điện lực tỉnh… trên địa bàn các tỉnh, thành phố hiện nay có phải là cơ quan, tổ chức của Trung ương được tổ chức, hoạt động theo ngành dọc ở cấp tỉnh hay không? Theo đại biểu, nếu các đơn vị này không phải là cơ quan, tổ chức của Trung ương được tổ chức, hoạt động theo ngành dọc ở cấp tỉnh, thì dự thảo luật cần bổ sung quy định những đơn vị nêu trên cũng thuộc trường hợp nộp lưu tài liệu vào lưu trữ lịch sử cấp tỉnh.
Đồng thời, đối với quy định tại Điều 28 về thu nộp tài liệu giấy, đại biểu Lý Thị Lan đề nghị, sửa cụm từ “ghi số bút lục” tại điểm c, khoản 2 thành “đánh số tờ”. Nguyên nhân do, sử dụng cụm từ “đánh số tờ” tạo được sự thống nhất với quy định về lập hồ sơ giấy tại Khoản 4, Điều 29 Nghị định số 30/2020/NĐ-CP của Chính phủ về công tác văn thư. Mặt khác, đại biểu nhấn mạnh, việc sử dụng cụm từ “đánh số tờ” sẽ dễ hiểu và đã quen thuộc trong lĩnh vực văn thư, lưu trữ thời gian qua.