Thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 Khóa XIII về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội:

Tiếp tục hoàn thiện thể chế, pháp luật thống nhất, đồng bộ, phát triển thị trường lao động hiện đại, đầy đủ và hội nhập quốc tế

TS. Bùi Ngọc Thanh - Nguyên Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội

Một trong những mục tiêu quan trọng của chính sách xã hội mà Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 Khóa XIII (Nghị quyết số 42-NQ/TW ngày 24.11.2023 về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới) đã xác định đến năm 2030, đó là phải “Hoàn thiện chính sách an sinh xã hội đa dạng, đa tầng, toàn diện, hiện đại, bao trùm, bền vững”.

Nghị quyết cũng chỉ rõ: chính sách an sinh xã hội nhằm tạo cơ hội cho nhân dân, nhất là người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn, người sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn tiếp cận được các dịch vụ xã hội cơ bản trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Hệ thống chính sách an sinh xã hội bảo đảm đầy đủ 6 tính chất như Nghị quyết đã xác định như trên bao hàm 4 loại chính sách lớn: thị trường lao động; bảo hiểm xã hội; bảo trợ xã hội; và chính sách đối với người có công. Trong đó, chính sách thị trường lao động là bao trùm, là tầng thứ nhất, được đặt lên hàng đầu, vì nó có mối quan hệ đến toàn bộ dân số và nguồn lao động của cả nước.

Phát triển thị trường lao động, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo việc làm bền vững cho người lao động

Theo Chương III Bộ luật Lao động hiện hành, thị trường lao động là nơi diễn ra sự trao đổi giữa người sử dụng lao động với người lao động theo nguyên tắc thỏa thuận (tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác và trung thực) về việc làm, thời gian làm việc, nghỉ ngơi, tiền lương, tiền công, bảo hiểm xã hội, an toàn, vệ sinh lao động cùng các điều kiện làm việc khác thông qua Hợp đồng lao động được giao kết.

“Phát triển thị trường lao động, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo việc làm bền vững cho người lao động” mà Nghị quyết đã xác định, từ đó sẽ hỗ trợ người lao động tiếp cận thị trường lao động, tìm kiếm được việc làm, tiến đến việc làm bền vững, có thu nhập ổn định, tự lo toan được toàn bộ hoặc một phần cuộc sống của mình, giảm bớt được các khoản trợ cấp của Nhà nước và xã hội. Đây là nhóm chính sách, là tầng nấc quan trọng bậc nhất... Song, có thể nói, thị trường lao động nước ta chỉ mới được xác lập từ khi bước vào công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Trải qua gần 40 năm, thị trường lao động đã có những tiến bộ nhất định cả về quy mô và chất lượng, đang từng bước hoàn thiện, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Người lao động tìm việc tại quầy tuyển dụng của Trung tâm dịch vụ việc làm TP. Hồ Chí Minh ở Bến xe An Sương. Ảnh: Thanh Vũ - TTXVN
Người lao động tìm việc tại quầy tuyển dụng của Trung tâm dịch vụ việc làm TP. Hồ Chí Minh ở Bến xe An Sương. Ảnh: Thanh Vũ

Cơ cấu lao động trên thị trường không ngừng được đổi mới do kết quả to lớn của sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa nền kinh tế. Cung lao động ngày càng đáp ứng khá hơn đối với cầu lao động, nhất là lao động có chất lượng cao, và ngày càng phù hợp với những ngành nghề tạo ra sản phẩm có giá trị cao, từng bước tạo ra nhiều việc làm bền vững cho người lao động.

Các nguồn cung lao động được chuẩn bị tốt hơn: giáo dục nghề nghiệp đang thực hiện nhiều yêu cầu về chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, quốc tế hóa..., gắn bó chặt chẽ hơn với nhu cầu của thị trường lao động; đào tạo liên thông giữa các cấp trình độ, nâng cao chất lượng đào tạo. Từng bước cung lao động ra thị trường những lao động có chuyên môn, kỹ năng nghề theo tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia, từng bước tiếp cận kỹ năng nghề khu vực và quốc tế.

Đổi mới hoàn toàn phương thức tuyển dụng lao động. Nếu trong cơ chế kế hoạch hóa chỉ huy tuyển dụng lao động theo chỉ tiêu kế hoạch nhà nước, thì nay tuyển dụng theo nhu cầu lao động thông qua thị trường lao động. Ở cơ sở - doanh nghiệp là quan hệ hai bên (người sử dụng lao động và người lao động) giao kết hợp đồng lao động trên cơ sở đối thoại, thương lượng và đi đến thỏa thuận. Ở tầm vĩ mô là quan hệ ba bên: Nhà nước - người sử dụng lao động - người lao động, phù hợp với kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Hoạt động của thị trường lao động trở thành động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động từng bước phù hợp với chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Lao động khu vực phi chính thức (không có quan hệ lao động) chuyển dần sang làm việc ở khu vực chính thức (có quan hệ lao động) là những doanh nghiệp sản xuất hàng hóa có giá trị, chất lượng cao.

Tính toán tổng hợp theo thông tin của Tổng cục Thống kê (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) công bố ngày 24.1.2024 và các thông tin trước đó trên Cổng thông tin điện tử của Tổng cục cho thấy rõ sự chuyển dịch tích cực về lao động giữa 3 khu vực. Khu vực nông, lâm, thủy sản từ 48,7% tổng số lao động làm việc năm 2010, giảm xuống 27,6% năm 2022 và còn 26,9% vào cuối năm 2023. Cũng với 3 mốc thời gian trên, khu vực công nghiệp, xây dựng lần lượt tăng từ 21,7% lên 33,3% và 33,5%. Khu vực dịch vụ tăng từ 29,6% lên 39,1% và 39,6%... Trong Nghị quyết 42-NQ/TW, Trung ương nêu rõ: “Việc làm cho người lao động cơ bản được bảo đảm, tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị thấp”...        

Hệ thống thông tin thị trường lao động được hình thành với nhiều nội dung phong phú, trong đó có hệ thống dự báo cung - cầu lao động, dịch vụ tìm kiếm, chuyển đổi việc làm, kết nối cung - cầu lao động, giới thiệu việc làm, cung ứng lao động cả trong nước và quốc tế. Hệ thống thông tin này cũng góp phần đáng kể làm cho thị trường lao động ngày một sôi động hơn...

Dù đã đạt được những kết quả đáng trân trọng, song thị trường lao động nước ta vẫn còn những hạn chế nhất định. Nhận định tổng quát nêu trong Nghị quyết 42-NQ/TW là: “Thị trường lao động phát triển chưa đồng bộ, lao động khu vực phi chính thức còn lớn, đột phá về nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao chuyển biến chưa rõ nét”.

Có thể thấy rõ ở một số điểm sau, ở tầm vĩ mô, chính sách thị trường lao động chưa thật hoàn thiện, chưa đủ sức mạnh để giải phóng triệt để mọi nguồn lực đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có nguồn lực lớn nhất là sức lao động (chưa tạo được điều kiện đầy đủ để người lao động tự do hành nghề, tự do dịch chuyển, tự do lựa chọn việc làm trên thị trường lao động theo khả năng của mỗi người...). Chưa có sự gắn kết chặt chẽ giữa các phân khúc thị trường lao động (thị trường lao động vùng, thị trường lao động khu vực, thị trường lao động theo ngành nghề...). Thị trường lao động chưa gắn kết được với các dạng kinh tế mới (kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ...). Một số lao động đã qua đào tạo nhưng chất lượng không cao mà một trong những nguyên nhân là đào tạo theo một số tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia còn thấp; lao động kỹ thuật trình độ cao vẫn còn thiếu nhiều. Các chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp chưa hoàn chỉnh, chưa gắn kết chặt chẽ với hệ thống chính sách an sinh xã hội, chưa thích ứng, phù hợp với quá trình già hóa dân số. Nhiều lao động có thu nhập tương đối cao và ổn định nhưng chưa tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc. Năng lực dự báo cung - cầu lao động trên thị trường còn hạn chế, nguồn tài liệu về biến đổi của thị trường chưa được cập nhật có hệ thống đầy đủ; kết nối thị trường lao động trong nước với thị trường lao động ngoài nước mới chỉ là bước khởi động...

Từ những kết quả đã đạt được và khiếm khuyết, tồn tại đã chỉ ra cho thấy, cần khẩn trương, tích cực đổi mới, phát triển thị trường lao động theo đúng tinh thần Nghị quyết 42-NQ/TW.

Đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của thị trường lao động

Nghị quyết 42-NQ/TW đã xác định một chỉnh thể gồm 8 nhiệm vụ quan trọng của việc đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của thị trường lao động.

Một là, đẩy mạnh chính sách dân số và phát triển theo hướng có quy mô, cơ cấu, phân bố hợp lý, cân bằng tỷ số giới tính khi sinh ở mức tự nhiên và duy trì mức sinh thay thế trên phạm vi cả nước. Hai là, tạo bước đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo, trọng tâm là hiện đại hóa, đa dạng hóa phương thức giáo dục, đào tạo.

Ba là, tăng cường định hướng nghề nghiệp cho thanh niên ngay từ bậc học phổ thông; đẩy mạnh phân luồng, tăng số học sinh sau THCS, THPT vào giáo dục nghề nghiệp. Bốn là, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao.

Năm là, phát triển thị trường lao động theo hướng linh hoạt, hội nhập, hiệu quả, đồng bộ với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Sáu là, xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ.

Bảy là, tạo việc làm cho người lao động phải gắn với mục tiêu phát triển bền vững nhằm giải phóng sức sản xuất, nâng cao tay nghề, thu nhập và bảo đảm an toàn tại nơi làm việc cho người lao động. Tám là, mở rộng tín dụng chính sách xã hội nhằm hỗ trợ vốn vay tạo việc làm, sinh kế cho người dân, nhất là người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn.

Thực thi các nhiệm vụ trên, từ thực tiễn, thiết nghĩ, cần tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách pháp luật thống nhất, đồng bộ về phát triển thị trường lao động theo hướng hiện đại, đầy đủ và hội nhập quốc tế. Hoàn thiện hệ thống chính sách nhằm giải phóng triệt để sức sản xuất, sức lao động để phát huy cao độ khả năng của đội ngũ lao động cho sản xuất kinh doanh, cho tăng trưởng kinh tế. Phải hoàn thiện tiêu chuẩn kỹ năng nghề Việt Nam tương đồng, phù hợp với tiêu chuẩn kỹ năng nghề khu vực và quốc tế.

Nhà nước thiết lập hành lang pháp lý của thị trường lao động phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, tiếp cận với chuẩn mực hành lang pháp lý quốc tế về thị trường lao động; hỗ trợ, tạo điều kiện để thị trường lao động phát triển nhanh, mạnh, đúng hướng và kết nối với thị trường lao động các nước trong khu vực và thế giới.

Thực hiện cung lao động ra thị trường với số lượng vượt trội lao động có chất lượng cao trên cơ sở đổi mới giáo dục, đào tạo nghề nghiệp theo tiêu chuẩn kỹ năng nghề đã được “nâng cấp”. Phát triển giáo dục, đào tạo nghề nghiệp gắn với nhu cầu thực tế của thị trường lao động. Liên kết rộng rãi, chặt chẽ giữa các cơ sở giáo dục, đào tạo nghề nghiệp với các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh (nghĩa là doanh nghiệp trực tiếp tham gia đắc lực vào quá trình giáo dục, đào tạo nghề nghiệp cho người lao động). Trong giáo dục nghề nghiệp còn phải chú ý đầy đủ đến giáo dục “kỹ năng mềm”, đó là kỹ năng ứng xử với đồng nghiệp, với lãnh đạo, quản lý, kỹ năng làm việc theo nhóm trong môi trường có lao động nhiều nước cùng tham gia; đào tạo công nghệ thông tin, ngoại ngữ...

Đầu tư thỏa đáng, phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng thị trường lao động, đó là hệ thống dự báo cung - cầu lao động, lưu giữ và phát huy cơ sở dữ liệu về thị trường lao động, thông tin về thị trường, dịch vụ tìm kiếm, chuyển đổi việc làm... Hệ thống này phải được phát triển ở tất cả các tỉnh, thành phố trong cả nước và được chuyển đổi số để kết nối, liên thông trong nước và quốc tế.

Thiết lập mối quan hệ chặt chẽ với một số tổ chức quốc tế có liên quan đến công việc của thị trường lao động: Quỹ Dân số của Liên Hợp Quốc (UNFPA), Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng châu Á (ADB), các tổ chức thị trường lao động các nước ASEAN... để nghiên cứu chia sẻ kinh nghiệm tổ chức vận hành và quản lý thị trường lao động, và để được hỗ trợ kỹ thuật, hỗ trợ các nguồn tài chính...

Đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của thị trường lao động theo Nghị quyết 42-NQ/TW chắc chắn sẽ từng bước thu hẹp tới mức hợp lý quy mô lao động khu vực phi chính thức; cơ cấu lao động theo các khu vực sẽ ngày càng hợp lý hơn, tiếp tục góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hướng, hiệu quả; tạo ra nhiều chỗ làm việc, có cơ hội lớn toàn dụng các nguồn lao động cả trong và ngoài độ tuổi quy định, thích ứng với tốc độ già hóa dân số đang diễn ra.

Quốc hội và Cử tri

Hà Nội: Cử tri ủng hộ chủ trương sáp nhập, tinh gọn bộ máy của Trung ương
Hoạt động của Đoàn ĐBQH

Hà Nội: Cử tri ủng hộ chủ trương sáp nhập, tinh gọn bộ máy của Trung ương

Tại hội nghị tiếp xúc của ĐBQH thành phố Hà Nội diễn ra mới đây, cử tri thị xã Sơn Tây và các huyện Phúc Thọ, Ba Vì, Đan Phượng bày tỏ đồng tình, ủng hộ rất cao chủ trương sáp nhập, tinh gọn bộ máy của Trung ương. Đồng thời, mong muốn được tham gia đóng góp ý kiến, đề xuất các giải pháp để quá trình sáp nhập diễn ra được thuận lợi, hiệu quả và phù hợp với thực tiễn từng vùng, địa phương.  

Bí thư Thành ủy Hà Nội Bùi Thị Minh Hoài tiếp xúc cử tri trước Kỳ họp thứ Chín, Quốc hội Khóa XV
Hoạt động của Đoàn ĐBQH

Bí thư Thành ủy Hà Nội Bùi Thị Minh Hoài tiếp xúc cử tri trước Kỳ họp thứ Chín, Quốc hội Khóa XV

Chiều 17.4, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy, Trưởng Đoàn ĐBQH thành phố Hà Nội Bùi Thị Minh Hoài đã tiếp xúc cử tri huyện Gia Lâm, quận Hoàng Mai trước Kỳ họp thứ Chín, Quốc hội Khóa XV. Hội nghị được tổ chức trực tiếp kết hợp trực tuyến từ đầu cầu chính tại trụ sở HĐND - UBND quận Hoàng Mai kết nối với huyện Gia Lâm.

AMH
Chính sách và cuộc sống

Tăng trưởng trên 8% và đường dây 500kV mạch 3

Tại Nghị quyết 77/NQ-CP về phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 3.2025 và Hội nghị trực tuyến với các địa phương, Chính phủ kiên định mục tiêu tăng trưởng GDP 8% trở lên trong năm nay dù nhận định tình hình thế giới có thể tiếp tục biến động lớn, chiến tranh thương mại lan rộng; ở trong nước thì khó khăn và thách thức nhiều hơn thuận lợi. Điều này gợi liên tưởng tới dự án đường dây 500kV mạch 3 từ Quảng Trạch (Quảng Bình) đến Phố Nối (Hưng Yên).

Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn phát biểu
Quốc hội và Cử tri

Khơi thông điểm nghẽn, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, tạo động lực để Hải Phòng phát triển

Việc ban hành dự thảo Nghị quyết của Quốc hội thay thế Nghị quyết số 35/2021/QH15 về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển TP. Hải Phòng là hết sức cần thiết để khơi thông các điểm “nghẽn”, tạo đột phá, có sức lan tỏa lớn trong vùng đồng bằng sông Hồng và đóng góp lớn hơn vào tốc độ tăng trưởng kinh tế của cả nước. Đây là nhận định của các Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội khi cho ý kiến với nội dung này tại Phiên họp thứ 44.

Tổng Bí thư Tô Lâm phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị.
Chính sách và cuộc sống

Đích đến là phục vụ Nhân dân tốt hơn

Cần lưu ý khắc phục cả 2 khuynh hướng: một là, sáp nhập các xã, phường quá rộng như một "cấp huyện thu nhỏ" dẫn đến không quán xuyến được địa bàn, không chủ động phục vụ được Nhân dân, dẫn đến biến chủ trương không tổ chức cấp huyện thành không tổ chức cấp xã. Hai là, sáp nhập các xã, phường quá nhỏ, dẫn đến hạn chế về không gian, dư địa phát triển, đầu mối nhiều hơn dẫn đến cồng kềnh, kém hiệu quả.

Ảnh minh họa
Chính sách và cuộc sống

Doanh nghiệp phải tiên phong, dẫn dắt chuyển đổi số

Các doanh nghiệp nhà nước phải phát triển, tăng trưởng, ngày càng lớn mạnh, trưởng thành, trên cơ sở thúc đẩy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, tăng năng suất lao động; vừa phát triển cho chính mình, vừa góp phần vào sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước.

Cần đặt chính sách về nguồn nhân lực là ưu tiên hàng đầu
Chính trị

Cần đặt chính sách về nguồn nhân lực là ưu tiên hàng đầu

Nhấn mạnh, đối với phát triển khoa học và công nghệ, thì chính sách về nguồn nhân lực là vấn đề phải ưu tiên hàng đầu, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Thanh đề nghị, cần nghiên cứu, điều chỉnh đưa nội dung về nguồn nhân lực lên thứ tự ưu tiên trong hệ thống chính sách. Đồng thời, bổ sung trong dự thảo Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo những nội hàm về thu hút nguồn nhân lực là Việt kiều và người nước ngoài.

Đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khảo sát thực tế tại Trường Cao đẳng Dầu khí
Quốc hội và Cử tri

Đồng bộ các chính sách thu hút, phát triển nhân lực chất lượng cao

Thu hút nhân lực chất lượng cao được nhiều địa phương, đơn vị xác định là một trong những nhiệm vụ chiến lược nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, thực tiễn cũng cho thấy, còn nhiều khó khăn, thách thức trong việc phát triển và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao.

Không thể bảo vệ môi trường nếu thiếu hạ tầng kỹ thuật đồng bộ
Hoạt động của Đoàn ĐBQH

Không thể bảo vệ môi trường nếu thiếu hạ tầng kỹ thuật đồng bộ

Sau hơn ba năm triển khai Luật Bảo vệ môi trường 2020, công tác bảo vệ môi trường tại Quảng Ngãi đạt nhiều kết quả tích cực, đặc biệt tại các đô thị, khu công nghiệp - nơi từng “nóng” về vấn đề chất thải và ô nhiễm. Tuy nhiên, qua giám sát của Đoàn ĐBQH tỉnh về bảo vệ môi trường kể từ khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 có hiệu lực thi hành tại một số địa phương, đơn vị, cũng cho thấy những “mảng xám” cần được tiếp tục xóa nhòa bằng những hành động cụ thể, quyết liệt, đặc biệt là trong việc đầu tư đồng bộ hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi trường.

Đoàn ĐBQH tỉnh Lâm Đồng khảo sát thực tế tại Trường THCS Nguyễn Du, TP Đà Lạt
Hoạt động của Đoàn ĐBQH

Để Đà Lạt trở thành thành phố xanh ASEAN

Để Đà Lạt thực sự trở thành thành phố du lịch xanh - sạch - đẹp tầm cỡ khu vực ASEAN, UBND thành phố cần tiếp tục triển khai đồng bộ, quyết liệt hơn nữa các biện pháp nâng cao nhận thức của cộng đồng, cải thiện hiệu quả công tác quản lý môi trường trên địa bàn và giải quyết dứt điểm các vấn đề còn tồn tại. Đặc biệt, cần có một nhà máy xử lý chất thải hiện đại, áp dụng công nghệ tiên tiến, công suất phù hợp đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về xử lý chất thải cũng như phát triển bền vững cho thế hệ hiện tại và tương lai.

Đoàn khảo sát của Ủy ban Quốc phòng, An ninh và Đối ngoại làm việc với Công ty Cổ phần VNG
Diễn đàn Quốc hội

Sớm có chế tài, đáp ứng yêu cầu thực tế

Dữ liệu là thành tố rất quan trọng của chuyển đổi số, là tài nguyên chiến lược quốc gia trong công cuộc phát triển đất nước, do đó các dữ liệu phải được bảo mật, bảo vệ nghiêm ngặt. Các thành viên Đoàn khảo sát của Ủy ban Quốc phòng, An ninh và Đối ngoại đề nghị, từ thực tiễn công tác, Công an TP. Hồ Chí Minh nghiên cứu góp ý thêm cho dự thảo Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân, góp phần nâng cao chất lượng công tác bảo vệ dữ liệu cá nhân trong quá trình xử lý dữ liệu, bảo vệ an ninh quốc gia trên không gian mạng.

Đoàn ĐBQH TP. Hồ Chí Minh giám sát việc thực hiện chính sách pháp luật về bảo vệ môi trường tại UBND thành phố
Hoạt động của Đoàn ĐBQH

Quyết liệt triển khai chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường

Giám sát tại UBND TP. Hồ Chí Minh về tình hình triển khai chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường (BVMT), Đoàn ĐBQH thành phố đã thẳng thắn chỉ ra nhiều tồn tại, vướng mắc và đề nghị các cơ quan liên quan làm rõ một số nội dung liên quan đến thực trạng ô nhiễm không khí, ô nhiễm tiếng ồn; nâng cao ý thức, điều chỉnh hành vi của người dân; chế tài xử lý các hành vi vi phạm… Qua đó, nhấn mạnh trách nhiệm triển khai chính sách, pháp luật về BVMT là trách nhiệm chung của nhiều cơ quan, đơn vị, địa phương cũng như cả cộng đồng và cần thực hiện một cách đồng bộ, quyết liệt.