Tiếng ve
Lúc này, ở Hà Nội, đang đợt nắng hè đầu tiên của năm. Hơi nóng như lò lửa. Lửa bốc ngùn ngụt đến đâu, dường như người ta bị phát điên phát rồ tới đó. Nhà nhà họ rủ nhau đóng sập cửa. Già trẻ gái trai ra ngoài công viên, ven hồ hóng mát. Nhưng nào có mát. Cái nóng vẫn len lỏi khắp băm sáu phố phường. Nóng không chừa nhà nào. Thỉnh thoảng nơi này nơi kia lại bị mất điện. Vào lúc người ta cần dòng điện sống khỏe, thì nó lại chết. Có khác nào nhà điện chơi xỏ khách hàng.

Tôi sợ cái thằng nắng nóng vào hàng nhất nhì trong các loại sợ. Nên tôi nhanh chóng trốn về quê Cao Bằng hưởng gió mát.
Một mình một xe. Chặng đường ngược núi dài hun hút hơn ba trăm cây số. Ngược gió mà leo. Xuôi đèo mà thả. Càng gần đến nhà, đường càng hoang vắng. Đã hoang vắng lại còn quanh co, cong queo, ngoằn ngoèo như trong nhà có thằng đàn ông cực kỳ bẳn tính. Có nhiều bạn bè là người Hà Nội, khi nghe tôi mời ngược lên Cao Bằng nghỉ mát với mình, họ rất thích, nhưng vẫn hãi. Hãi bởi con đường vừa xa vừa chênh vênh, đầy sự bất ngờ nguy hiểm.
Mặc dù vợ con can ngăn, tôi vẫn đi. Cái tính tôi trước nay, một khi thích thì đố ai cản được. Các bạn biết đấy. Phần lớn người đàn ông xứ mình hầu như sợ vợ. Nói sợ thì hơi quá. Nói chính xác là nể vợ. Ai nể vợ là người đàn ông khôn. Khôn đẻ ra lõi trầm, lõi nghiến. Nể vợ chỉ có lợi, đi đâu mà thiệt. Nhưng lần này, tôi xin phép bà đàng hoàng. Xin phép trong lúc “thủ trưởng” ra chợ mua mớ rau con cá. Để lại một mảnh giấy bằng bàn tay thay mặt làm phép.
Cùng thời gian này, trời Cao Bằng có một thứ gió. Trời ơi nó mát lạnh dìu dịu từ núi đá thở ra, từ lòng sông suối hả lên. Thời tiết đẹp mê hồn như đang cuối thu. Ờ nhỉ, quên mất, trên quê tôi cũng có tiếng ve khi hè về. Nhưng nghe rất khác tiếng ve ở Hà Nội. Nó da diết. Nó khắc khoải. Tiếng ve nó nhớ bạn tình. Nó réo éo... i... éo... i... éo... ẹtẹtẹt... suốt từ sáng đến chiều. Thậm chí có hôm, trời hây hẩy trăng, chúng gọi bạn tình đến mười hai giờ đêm mới tắt. Sáng ra, nước đái ve vãi đầy gốc tre già. Nước đái ve bốc lên mùi khai cay cay nồng nồng đăng đắng. Mùi cay đắng xộc thẳng vào hai cánh mũi, làm người đi đường phải nhịn hơi hơn hai ba chục nhịp.
Bây giờ, người ta cắm tại chỗ có tiếng ve cay đắng một cột cây mốc. Cây cột mốc mang trên mình dòng chữ km 08. Tôi thắc mắc, tại sao họ không đặt đúng cự ly 1km (bằng 1000m). Người ta lại chọn địa điểm cách trung tâm thị xã Cao Bằng đúng chằn chặn 800m đường xe lăn. Chắc đây không hẳn là một việc làm mang tính ngẫu hứng. Tôi không tin nhà chức trách nào hễ cứ đú lên là làm, chả cần tiêu chí tiêu chuẩn đo lường. Nhưng đây vẫn là một câu hỏi bỏ lửng.
Chỗ có tiếng ve cay đắng này là ngã ba. Đường vòng qua tay trái là vào Nà Rụa, đi nữa tới các xã Canh Tân, Minh Khai thuộc vùng sâu vùng xa của tỉnh Cao Bằng. Đường bên phải vào Nà Gà, Bản Hoàng. Đi thẳng lên dốc là vào khu gia đình công nhân địa chất đoàn 105.
Ngày ấy, căn lều làm nơi trú ngụ của gia đình tôi, nằm chênh vênh trên sườn dốc, sát hàng rào Đoàn địa chất 105. Gọi là dốc mới hẳn đúng. Vì nó nghiêng lắc một cách dã man. Căn lều của tôi đặt vào giữa một đám rẫy trồng dây lang. Trồng lang là để lấy lá nuôi lợn, chứ không mong có củ để đem luộc hay đem nướng. Đây là món khoái khẩu hấp dẫn tôi từ hồi còn trẻ trâu. Đất này là đất gan gà, pha đá xít, lẫn đá thạch anh, nên trồng bất cứ cây gì cũng khó mà sinh trưởng tươi tốt. Những cọng rau lang lớn lên từ quê hương nghèo khó, nên nó nhỏ như tăm tre, cứng hơn sắt thép. Giống hệt tính cách người quê tôi.
Vâng ạ. Cách nay hơn hai chục năm, con gái tôi mới học lớp một. Hình ảnh cô bé tóc loe hoe vàng, tay bưng mẹt đậu phụ trắng bóc. Cháu ra chỗ có tiếng ve cay đắng ngồi bán đậu phụ đỡ đần bố mẹ. Bắt con mình phải sớm làm việc chợ búa như thế này, không khác gì người ta tuốt lúa non, bẻ những bắp ngô đang cho con bú, mang về dùng đỡ. Bây giờ nghĩ lại, nước mắt vòng quanh lặn vào trong. Con gái ơi, pa thương con biết chừng nào.
Con bé mới bảy tám tuổi đầu, vừa bán đậu nó vừa trông thằng em mặt mũi lấm lem, chân tay còi cọc. Nó ngồi cả buổi mà chả ai hỏi han bao nhiêu tiền bìa đậu cháu ơi cho mặt nó vui. Mẹt đậu vẫn đầy, chưa mở hàng được đồng hào nào, nhưng trong lòng hai chị em lại lên cơn sóng ngọt. Vì ở ngay bên cạnh, có quán hàng của bà bá Khén. Bánh xốp thơm phức trong lớp giấy bóng. Kẹo hoa hòe hoa sói ép cứng nằm chật ních trong lọ. Thế là mắt mũi con chị thằng em sáng rực lên. Nó đánh liều mua chịu của bá Khén vài viên kẹo vừng kẹo lạc. Ngày đó, nếu ai nhìn thấy và còn nhớ cảnh hai chị em nhai kẹo ngon lành ra làm sao thì xin mách lại cho tôi biết.
Không thể nào quên đôi chân con tôi khi nó bước. Đôi chân nhỏ xíu bước hịt bước hều. Nhưng cái mặt nó luôn cười tươi làm như nhà ta chẳng hề đói rách.
Ngày ấy hầu như ai ai cũng chịu chung số phận. Cả nước đang gồng mình hàn gắn những vết thương chiến tranh. Đồng lương cán bộ nhỏ giọt. Đầu tháng lĩnh một nửa. Cuối tháng lĩnh nốt nửa còn lại. Cầm vài đồng tiền lỏng lẻo quăn queo mang về cho vợ trả nợ, cũng vừa vặn sạch ráo. Thế là lại nhẹ nhàng trống trếnh trên đôi tay vợ tôi.
Làm đậu phụ, nấu rượu để bán. Lời lãi chưa thấy đâu. Nhưng được cái bã đem nấu lẫn với cám cho lợn. Ăn thứ hỗn hợp này, lão trư béo tròn chắc nịch trông thấy. Da lão hồng hào đỏ đắn từng ngày. Vài ba tháng xuất chuồng được lứa lợn. Tiền ở đấy chứ đâu. Đấy là bài học đầu tiên mẹ tôi khuyên nàng dâu, khi mới thò thè thẽ thọt bước thấp bước cao vào cửa làm con.
Nuôi lợn là phong trào tự phát, trong công nhân viên chức khắp tỉnh Cao Bằng. Đó là việc làm để “tự cứu mình trước khi trời cứu”. Một câu nói nổi tiếng của một nhà lãnh đạo nước ta có tư tưởng cấp tiến nhất thời bấy giờ.
Nhắc lại một kỷ niệm dù buồn, làm ta yên tâm hơn. Cuộc sống hôm nay đã khác rất xa ngày hôm qua. Dù ăn ngon mặc đẹp đến mấy, cũng đừng quên những ngày đói rách vĩ đại.