THỦY CHIẾN VÂN ĐỒN (Phần 1)
Truyện ngắn của Uông Triều

29/07/2013 08:39

Vân Đồn năm 1288. Nguyên chúa Hốt Tất Liệt đã cử Trấn Nam vương Thoát Hoan, Ô Mã Nhi mang đại quân sang đánh Đại Việt lần thứ ba. Trương Văn Hổ là tướng vận lương, mang theo bảy mươi vạn hộc đi đường thủy tiến vào Đại Việt. Trần Khánh Dư đang trấn giữ Vân Đồn.

Minh họa của Thúy Hằng
Minh họa của Thúy Hằng
Trương Văn Hổ hùng dũng như hổ tướng dẫn đầu đoàn thuyền lương tiến vào biển Vân Đồn. Lần xuất binh này thật hệ trọng với Hổ. Trước khi xuất binh, Nguyên chúa đã dặn dò kỹ lưỡng, lương thảo dùng cho đại quân đánh dài, quyết phải giữ cho bằng được. Những lần trước, chinh chiến dài ngày, đường xa không đủ lương thảo, quân lâm khốn đốn đến bại trận. Lần này, bảy mươi vạn hộc lương được xuất ra đủ nuôi quân trong một năm. Cánh quân của Ô Mã Nhi phải hộ tống đoàn thuyền lương cho an toàn.

Sóng Vân Đồn không quá lớn. Hổ thấy lòng nao nao. Từ kẻ thảo khấu lừng danh, nay trở thành tướng nhà Nguyên, được Nguyên chúa giao cho trọng trách hộ tống đoàn thuyền lương, lòng Hổ vừa mừng vừa lo. Tin báo về, đại quân của Ô Mã Nhi thừa thắng mà đi quá nhanh, đoàn thuyền lương nặng nề của Hổ không theo kịp. Hổ nghe tin mà trong người như đốt lửa. Vậy là Ô Mã Nhi đã không nghe lời dặn dò, cứ thế tiến binh. Thuyền lương nặng nề làm sao đi nhanh cho được. Lương thảo là cái gốc của quân binh. Lương thảo dồi dào, quân mới yên lòng mà đánh cho chắc được. Mã Nhi, ngài đánh hàng trăm trận mà không nhớ điều ấy sao, ngài quá hồ đồ rồi. Đại quân đi trước, thuyền lương theo sau, liệu có bảo toàn được không. Nếu kẻ địch dùng kế phục binh thì xoay sở thế nào. Hổ này không phải kẻ hèn kém nhưng vừa lo đánh nhau, vừa phải chuyển lương, liệu có chu toàn được không. Càng nghĩ, Hổ càng thấy như ngồi trên đống củi khô đã châm mồi lửa dưới đáy.

 Hổ bước ra mũi thuyền, đăm chiêu nhìn sông nước Đại Việt. Quân thủy Hổ vốn quen tay, nhưng lần đầu đưa quân vào Đại Việt, cũng phải dự lường mọi việc. Có chuyển lương trót lọt thì mới mong tính chuyện dài lâu được, không phải ngẫu nhiên mà Nguyên chúa chọn Hổ làm tướng vận lương, ngài đã nghĩ tới việc trước kia của Hổ. Hổ quyết không phụ lòng người, nếu để mất lương thì tránh sao khỏi vết xe lần trước, mà mạng tướng chưa chắc đã giữ được.

 Những dũng sĩ khỏe nhất được cắt đặt để hộ tống thuyền lương, nhiều tên vốn là thảo khấu, lục lâm. Những kẻ ấy khi lâm trận không phải là những tay vừa, chúng dám liều chết vì chủ. Nhưng Hổ vẫn thấy bực mình. Ô Mã Nhi thực là hồ đồ, sao lại thúc đại quân đi quá nhanh, biết đâu quân Việt thua trận chỉ là kế nghi binh? Hổ biết, những lúc bị truy đuổi là lúc dễ đánh vu hồi, kẻ thắng còn đương say men thắng mà ít phòng bị. Ô Mã Nhi ngài là bậc đại tướng mà quên điều ấy sao. Lại không biết kẻ nào cầm quân ở vùng này. Liệu hắn có biết Hổ đưa thuyền lương đi mà không đại quân đi cùng. Nếu hắn biết thì hiểm nguy khó lường. Thuyền lương có mệnh hệ gì thì đại quân lấy gì để dùng. Hổ lấy gì trình tấu với chúa Nguyên được. Liệu đầu có còn nằm trên cổ nữa không. Hổ gần như không dám ngủ để quán xuyến việc quân.

 Đoàn thuyền lương của Hổ tiến vào Đại Việt từ từ. Quân do thám báo về, bờ sông im phăng phắc, dân chúng đã bỏ đi, quân Việt mấy trận thua khiếp vía, chạy tán loạn như vịt không dám quay lại nữa. Dù sao cũng không nên coi thường lũ man di, không để khinh suất. Trời chiều lòng người, cứ gió này mà đi thì mấy chốc sẽ vào kinh đô Đại Việt hợp với đại quân của Trấn Nam Vương.

Hổ thiếp đi, vừa mơ tưởng thắng trận tưng bừng, lập được công to thì nghe thấy tiếng kèn trận chói tai. Thuyền chiến Đại Việt từ lau lách hai bên bờ lao ra. Thuyền túa xuống nước nhiều như rắn rết, trăm bè lửa cháy bùng bùng lao về phía đoàn thuyền lương.

Hổ thét lớn:

- Có phục binh. Không được hỗn loạn. Giết chúng cho ta.

Quân Đại Việt độn thổ từ hai bờ, xông ra cướp thuyền. Quân sĩ mình trùi trũi, tay gươm tay giáo xông lên đánh dữ dội. Thuyền cỏ khô châm lửa lao vào thuyền chở lương. Nguyên quân hoảng hốt, hỗn loạn. Không ngờ quân Việt có tài ẩn nấp như vậy, tưởng như đám quân kia từ dưới mặt đất chui lên, từ dưới nước nhịn thở mà lấy dùi chọc thủng thuyền. Chớp mắt, thuyền chiến Đại Việt đã áp sát đoàn thuyền lương. Tướng của Khánh Dư là Lã Châu nhảy phắt lên thuyền trỏ vào mặt Hổ quát to:

- Hổ kia, mày đến giờ tận số rồi! Tao chờ mày lâu quá.

Hổ cười nhạt:

- Để xem mày đánh thế nào.

Châu nhảy tới chỗ Hổ đánh dữ dội. Các thuyền chất đầy dây hỏa lao xuống, thuyền lương của Hổ cháy đùng đùng. Hổ vừa đánh vừa thét binh sĩ tử chiến.

Những võ sĩ cản đường đều bị Châu chém đứt đầu. Hổ hùng hổ xáp vào. Hai bên đánh nhau mấy chục hiệp không phân thắng bại.

Quân sĩ hỗn chiến. Sau đội cảm tử của Lã Châu, quân của Khánh Dư ồ ạt xông lên. Ba anh em họ Phạm, lão tướng Hoàng Ân, Lê Yên cùng bọn Đinh Câu ào ạt lao tới chém giết cuồng loạn. Người nào người ấy dữ tợn giận dữ như hùm beo.

Tương quan một chín một mười. Châu giao chiến với Hổ mấy chục hiệp vẫn không nao núng. Khánh Dư đích thân đốc chiến:

- Đánh cho giặc nát vụn ra. Quyết không để cho chúng còn một hạt cám mà ăn.

Nói rồi tự mình xông vào đánh giặc. Khánh Dư gươm tuốt trần, nhằm những tên lính Nguyên to khỏe nhất mà xốc tới. Hai bên đánh nhau kịch liệt, tiếng hò hét kêu gào náo động cả một vùng, lửa cháy ngùn ngụt, khói đen mù trời. Quân của Khánh Dư càng đánh càng hăng, quân của Hổ cũng liều chết mà chống lại. Trời đất rền rĩ màu đỏ của máu.

Châu đánh hăng quá làm Hổ không kịp điều binh cho đúng pháp. Hổ mặt đỏ bừng bừng:

- Thằng nhãi dám cản đường tao. Tao giết mày cho hả giận.

Châu trúng một đao của Hổ, máu phun ra xối xả, mặt tái đi. Thấy vậy Khánh Dư quát lớn

- Có ta đánh thằng Hổ đây.

Nói rồi xông tới vây đánh Hổ. Các tướng hộ vệ của Hổ dồn lại. Hỗn chiến. Châu bị một đao nữa chém đứt chân, đứng không vững ngã lăn xuống nước. Hai tay Châu quờ quạng cố bám mạn thuyền, bị một thương đâm trúng ngực, máu phun ra như vòi rồng. Châu ngã xuống nước mắt còn trợn tròn.

Quân Việt xông lên bất kể sống chết.

Hai bên giằng co dữ dội, thuyền lớn bị đắm, bị cháy. Nguyên quân cố chống lại. Khánh Dư vây đánh Hổ, vừa hò hét quân sĩ quyết triệt nguồn lương của giặc, thuyền nào không cướp được thì đánh chìm, đốt cháy. 

Hổ hăng máu, liều chết đánh cứu lương nhưng không được. Trong lúc Nguyên quân đang núng thế thì từ phía cửa sông, thuyền quân Đại Việt kéo tới. Người cầm đầu nói lớn:

- Có Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản đến đánh đây.

Quân thấy viện binh tới đánh càng thêm hăng. Quân Quốc Toản còn đang tráng sức như một luồng gió quất tới. Tướng sĩ quyết chiến. Hổ đuối sức, liệu cơ không địch nổi bèn ra lệnh rút lui. Các võ sĩ liều chết hộ tống Hổ sang thuyền nhẹ quay đầu rút chạy. Toàn bộ đoàn thuyền lương bị đốt cháy, đánh chìm hoặc rơi vào tay quân Đại Việt. Thấy cảnh đó, Hổ kêu rằng:

- Ta tuyệt mất nguồn lương, đại quân lấy gì mà ăn. Trời bức ta rồi.

Quân của Khánh Dư, Quốc Toản thừa thắng truy kích. Bảy mươi vạn hộc lương không cánh mà bay. Trương Văn Hổ chạy ra đến biển mà mồ hôi còn chảy như tắm, mặt tím ngắt, không biết phải ăn nói thế nào với Thoát Hoan và Ô Mã Nhi.

Biển Vân Đồn máu đỏ lênh láng. Xác thuyền cháy sém, xác người nổi lềnh bềnh mặt nước. Mặt biển bốc khói, nước nhuộm màu hồng, mặt người xám đen khói và máu. Tưởng như có một cơn lốc xoáy vừa kéo qua, quật tất cả người cùng thuyền xuống biển.

Triệt hạ thuyền lương của giặc, Trương Văn Hổ phải chạy thục mạng để thoát thân. Khánh Dư đứng trước quân sĩ nói lớn:

- Đánh trận tuy tổn thất nhưng ta đã cắt được đường lương của giặc. Giặc tất sẽ khốn như những lần trước. Ta đã cho người báo tin mừng tới thượng hoàng và quan gia.

Lòng quân ai cũng phấn khởi. Lập được công lớn, bao trằn trọc rồi cũng vợi dần, gươm sắc đã chém được đầu giặc. Thuyền lương của giặc bị đánh đắm, đốt cháy, thu được cả cho quân binh. Tin báo tiệp tới, chắc thượng hoàng, quan gia, quốc công tiết chế lấy làm vui mừng lắm. Giặc không còn lương thì lòng dạ nào mà đánh. Xưa nay mất lương là tan quân, chúng lại giẫm đạp lên nhau mà chạy. Quân không no bụng thì sức đâu mà đánh, chúng hoảng loạn tất phải vỡ trận.

 Khánh Dư thấy lòng dịu bớt. Trận thua trước đã nhẹ đi phần nào, cái tội sờ thấy trên cổ đã được tháo ra. Ông thấy mình lại bừng bừng khí thế như còn trai trẻ. Nhớ năm xưa, khi xông trận diệt giặc, khí thế bừng bừng bất kể sống chết. Những năm tháng vàng son tưởng như không bao giờ còn nữa, bao ngày mòn mỏi, cơ cực ở đất Chí Linh còn ghi nhớ mãi. Tưởng chừng gươm sắc không bao giờ rút ra nữa. Lại thấy các tướng lập được công lớn, lòng cũng chạnh buồn. Khánh Dư này còn xứng làm tướng nữa hay không? Làm tướng mà không lập được công thì nói làm gì. Nay khí thế lại về, ta đánh cho giặc kinh hồn bạt vía. Ta không ngờ quân sĩ hăng máu như vậy, sức người bỗng dưng mạnh gấp nhiều lần. Nếu lòng quân không tràn khí thế nuốt ngưu đẩu, ta sao đánh được chúng. Tướng dẫu mạnh cũng phải cậy tới quân, ta một mình thì làm gì được. Quân binh kẻ nào kẻ ấy giận dữ, liều mạng làm sao. Thằng Hổ cũng không phải tay vừa, nếu không lấy khí thế mà đè át đi thì thắng sao được. Vó ngựa chúng, thuyền binh chúng phải tan tành khiếp vía. Quân Đại Việt đâu phải lũ vịt nhút nhát như chúng giễu cợt. Ta đâu có chịu nhục như thế, làm tướng phải xứng mặt tướng.

 Khánh Dư nhìn trăng Vân Đồn, trăng đã bớt màu đỏ nhưng vẫn sẫm lại tê tái. Ông chợt rùng mình nhớ tới giấc mộng hôm trước mà lòng vẫn bàng hoàng. Một ông già râu tóc bạc trắng cầm đại đao đứng đầu giường hỏi lớn:

- Làm tướng mà thua trận thì thế nào?

Tiếng đáp:

- Chém tướng.

Tiếng hỏi:

- Làm quân mà thua trận thì thế nào?

Tiếng đáp:

- Chém tướng.

Tiếng hỏi:

- Sao quân hay tướng thua mà đều chém tướng?

Tiếng đáp:

- Quân theo tướng mà làm. Kẻ nào không có tài làm tướng thì còn nhận làm gì. Chém!

Nói rồi ông già vung đao chém thẳng vào cột nhà, cột gỗ rung lên bần bật. Tiếng ông già vẫn rền vang. “Kẻ nào không có tài làm tướng thì nhận làm gì. Chém!” Khánh Dư toát cả mồ hôi. Làm tướng mà không có tài. Chém! Ta không còn đường lùi nữa rồi, không đánh được giặc thì không dám sờ vào cổ mình nữa.

 Giờ đây máu quân sĩ đã đổ xuống để ngăn giặc, lương thảo bị chặn nhưng đại quân giặc vẫn ở kinh thành. Nếu Mã Nhi có qua đây lần nữa, ta sẽ quyết đấu với hắn. Bao tướng sĩ của ta tử trận. Nghĩ đến họ là lòng đau ruột cắt. Từ Trương Đỗ đến Hoàng Ân, Nguyễn Thành, Cao Thuần, Lã Châu... những tướng sĩ tài ba nhất của ta đã bỏ mạng trên sa trường. Dòng máu phun cầu vồng của Châu khiến ta đau lòng quá. Trận đánh nào cũng nhuốm máu quân sĩ quên mình vì nước, liều mình vì chủ. Nếu không có họ thì ta nên công trạng gì. Càng căm giận lũ giặc tàn ác. Ta không phạm gì đến chúng, chúng lại phạm đến bờ cõi, tổ tiên ông bà, con gà con lợn nhà ta. Ta đánh đuổi quân tàn bạo. Giặc dám quay lại đây tất chỉ còn cái thây ma đưa về.

(Số sau đăng hết)

    Nổi bật
        Mới nhất
        THỦY CHIẾN VÂN ĐỒN (Phần 1)<br><i>Truyện ngắn của Uông Triều</i>
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO