Thương nhớ Lèng Hồ

05/02/2007 00:00

Mộ ông Páo nằm trên sườn núi, cỏ dại mọc xanh, gió bời bời. Thịnh chợt tiếc không kịp biết vì sao ngày đó, đêm đêm ông thường uống rượu và khóc một mình. Chỉ biết ông luôn rộng lòng trước con người, trước những điều đáng trách vẫn xảy ra, bởi cuộc sống của chúng ta còn nhiều khốn khó. Với ông, thì chẳng có con người nào xấu cả.

      1. Nhà ông Páo
      Năm ấy, Thịnh dạy một lớp xoá mù chữ ở xã vùng cao Lèng Hồ.
      Nơi anh dạy là thôn Cán Hồ của người Mèo. Anh ở nhờ tại nhà ông Vừ A Páo, trưởng thôn. Chà, nhà ông trưởng thôn, phảng phất không khí thời tiền sử, bước vào thấy cái gì cũng màu vàng. Vách đất nứt nẻ, cây cột ám khói vàng khè. Treo trên bếp lửa, lúc lỉu những chùm quả ngô giống vàng xuộm, những chùm đỗ giống quắt queo và la liệt chuối goòng vàng ửng. Trên gác, thóc chất vàng rộm, và cạnh đó là chỗ ngủ của người cũng lót rơm vàng. Bàn thờ là một tập giấy vàng xỉn đính loăn xoăn mấy sợi lông gà treo ở vách gian giữa, mỗi năm được thay một lần.    
      Ông Páo chẳng mấy khi cười. Mặt ông đen xạm như được đẽo ra từ tảng đá rửa chân cạnh máng nước lần ở đầu nhà. Vợ ông cũng hiếm khi mở miệng với chồng, mỗi ngày chỉ nói vài câu cần thiết với cô bé Thào Thị Dơ, con riêng của bà. Đi nương về, bà lầm lụi xay ngô hoặc ngồi đạp máy khâu xành xạch. Sau nhà có vườn lanh nhưng trồng chỉ để dệt váy, còn quần áo khác thì tự may bằng vải mua ở chợ. Ban đêm, khi vợ con đã đi ngủ, ông Páo thường rót rượu uống một mình. Uống cạn lưng bát rượu, ông đốt mấy que hương, ngồi giữ chúng cháy đỏ lừ trên tay, lặng lẽ khóc. Trong bóng tối, nước mắt chảy trên khuôn mặt lạnh đen như những giọt mồ hôi của đá. Mỗi sớm dậy, Thịnh thấy nước mắt ông đã chảy đầy cái bát sứ to.
      Chắc hẳn trong tâm hồn thăm thẳm như cái vực của người đàn ông Mèo kia có vết thương nào sâu lắm về tình duyên, Thịnh đoán vậy nhưng không dám hỏi. Anh làm thân với Dơ. Cô bé thường cặm cụi tập thêu hoa văn lên một miếng vải nhỏ. Tập trung toàn bộ tâm sức vào mũi kim, cô bé chăm chú đến nỗi mặt đỏ bừng, nước mũi chảy xuống tận môi mới hít lên đánh sụt một cái. Thịnh luôn miệng khen: "Đẹp lắm". "Không đẹp đâu" - Dơ lắc đầu, mặt đỏ lên như trái dâu da chín. Các em gái vùng cao là thế, hay thẹn lắm. Cô bé thường đợi lúc thầy giáo trẻ đi vắng mới lôi vở ra loay hoay tập viết, tập làm tính. Thoáng thấy anh về, Dơ lại giấu ngay vở dưới lớp váy xoè sặc sỡ. Thịnh lấy lòng cả nhà bằng việc giúp vợ ông Páo chặt củi, xay ngô, bằng việc mua về cho Dơ tập truyện tranh, cái bút màu, hộp nhựa... Dơ thích lắm. Có đêm cô bé ngồi ngắm mãi bức tranh Thịnh cho. Một giọt nước lăn chậm trên má em, rớt xuống mặt giấy. Dơ hơ chỗ ướt lên ngọn lửa đèn dầu, đợi khô hẳn, xoa xoa vào đó rồi cất tranh đi, không thấy giở ra lần nào nữa. Càng ngày Thịnh càng thấy cô bé hay nhìn trộm mình. Có đêm trèo lên gác, đến giữa bậc thang cô bé ngập ngừng nhìn về phía Thịnh. Không nhìn lại nhưng Thịnh cảm thấy đôi mắt ấy sáng xanh lên, tràn trề thương mến trong bóng tối âm thầm. Mỗi lần tỉnh giấc, Thịnh mường tượng mắt cô bé Mèo vẫn mở suốt đêm, như mắt con nhện xanh ẩn mình trong kẽ nứt tối om trên vách đất.
      Có hôm ông Páo rất vui. Ông rót rượu ra cái chén cáu bẩn mời Thịnh uống, và nói đi nói lại một câu: "ầy, thầy giáo Thịnh thích đứa con gái nào thì phải nằm với nó ngay à. Đừng không nằm, rồi sau mình với nó không thành thì tiếc lắm à". Thịnh cười khanh khách. Ông Páo lại rót rượu. "Sao thầy Thịnh không ăn nằm với cô giáo Thúy, thầy sợ có con à? Tôi cho thầy lá cây thuốc, không có được đâu mà". Thịnh lại phá lên cười. 
      Cách thôn Cán Hồ của người Mèo chừng một giờ đi bộ là thôn Pờ Hồ của người Mán. Ông Páo bảo: bên ấy hay giành cây, giành đất với bên này. Và nói: "Cái bụng thằng Mán không xấu đâu. Nhưng nó cũng khổ như mình nên sinh ra  thế". Thịnh bảo ông: đừng gọi người Mán là "thằng", mà gọi "đồng bào". Bảo mãi, ông nghe theo. Thịnh lại bảo ông gọi "người Mông, người Dao", đừng gọi "người Mèo, người Mán". Ông không chịu, bảo gọi thế quen rồi. Lâu dần, Thịnh cũng quen gọi theo ông Páo.

      2. Cô giáo Thúy
      Thúy dạy lớp xoá mù chữ cho người Mán bên Pờ Hồ. Cô mười chín tuổi, học cùng lớp với Thịnh ở trường sư phạm. Người Thúy thấp, da ngăm đen, mông bành bạnh, thịt đùn lên hai má đầy phè, cái mũi chun lại ở giữa, tin hin như mũi rùa. Nhìn thoáng qua thì Thúy không đến nỗi nào, nếu cô không quá thường xuyên bóp mụn và nặn trứng cá tạo thành nhiều lỗ trên mặt. Người chắc mập như dúi mùa măng nhưng ngực Thúy lại phẳng dẹt nên Thúy luôn phải đệm một miếng mút dày trong áo con. Cô thường mặc áo phông ngắn màu lòng tôm, mỗi khi ngồi, áo lại tụt lên lưng để lộ ra mảng quần lót đỏ thẫm sau cạp quần bò. Tay hiệu trưởng trường tiểu học Lèng Hồ gọi Thúy là "Thúy ti tẹt". Anh ta tiết lộ với Thịnh: "Ti Thúy là ti giả đấy, không phải thật đâu. Tớ nhìn, tớ biết". Mấy cô bé người Mán thì kêu: "Không thích cô giáo Thúy dạy đâu. Nhìn cô xấu lắm". 
      Thúy nghe học trò kêu ca vậy, cũng chẳng bận tâm. Cô vẫn tươi cười với chúng, gạ chúng đi rừng mang những quả ăn được về cho mình. Những quả lạ mắt, Thúy cẩn thận bổ ra cho kiến ăn thử, thấy kiến không chết thì Thúy ăn. Thúy rất biết thu vén, căn cơ, mỗi lần ra huyện lại chịu khó mua cá khô, mì miến, dầu hoả, pin đèn... mang về chất đầy gian buồng. Thúy bán lại cho dân, mỗi thứ lãi một ít. Tiền lúc nào cũng sẵn nhưng Thúy ăn tiêu tiết kiệm, ngay quần lót là thứ không tốn bao nhiêu cũng chỉ mua dùng những loại hai, ba nghìn đồng.   
      Có lần Thịnh sang Pờ Hồ chơi, bảo Thúy: "Con gái sau này lấy chồng, chồng lo, tội gì phải làm khổ mình hả Thúy". Thúy thật thà: "Thời đại này tốt nước sơn hơn tốt gỗ, con gái xấu khổ lắm Thịnh ạ. Những đứa xinh, vứt vào hố phân cũng có thằng nhặt. Mình không có nhan sắc thì phải cố dành dụm được ít tiền. Đàn ông bây giờ tính toán, nó phải thấy được cái gì khi lấy mình, phải không Thịnh?".
      Rồi Thúy khoe: "Từ giờ mỗi ngày Thúy chỉ nấu nửa bơ gạo thôi. Đói thì ăn thêm quả rừng. Vừa giảm béo, vừa tiết kiệm được khối tiền Thịnh ạ". Thịnh lắc đầu: "Chúng mình phải nghĩ đến sức khoẻ, làm sao qua được mùa đông sắp tới. Mùa đông trên này lạnh lắm đó". "Sao người vùng cao họ chịu rét giỏi thế Thịnh nhỉ?". "Họ ăn nhiều ớt để chống rét. Thúy không thấy rau họ cũng xào với ớt à". Thúy nhảy lên giường, vươn vai, rồi thả phịch thân mình xuống mép giường, cười toét miệng: "Sợ gì rét, Thúy khoẻ thế này cơ mà!". Đang nói, chợt Thúy nhìn thấy miếng mút tròn tròn rơi ngay dưới chân. Cô nhặt lên, thoáng ngượng ngùng rồi nói: "Thúy độn ngực đấy, chuyện bình thường con gái mà. Thịnh này, con gái dân tộc ở đây không dùng coóc xê, buồn cười nhỉ!".  
      Thịnh buồn rầu, về phàn nàn với ông Páo về thói chi tiêu quá dè sẻn của Thúy. Ông Páo nói:
- Cô giáo Thúy làm thế không xấu đâu. Không ai muốn khổ, nhưng bây giờ còn khó khăn nên phải ăn ít mặc ít. Sau này cuộc sống đi lên sẽ không thế mà.

      3. "Thầy giáo không tốt đâu"
      Đến Lèng Hồ hôm trước, hôm sau Thịnh vào nhận lớp trong thôn. Các em gái Mèo chừng mười ba, mười bốn tuổi xúm lại với nhau nhìn Thịnh, rúc rích cười. "Có thích thầy giáo không?" - Thịnh trêu. "Thích lắm. Nhưng học sinh lấy thầy giáo không thành đâu!" - Cả đám nhao nhao. "Sao lại không? Cứ lấy về là khắc thành mà". "ối, không phải đâu. Thầy giáo có vợ rồi mà!". Cả đám lại ríu ran như lũ cò non, vừa thẹn thùng vừa bạo dạn. Riêng có một em không nói gì, điềm tĩnh như người lớn, chỉ ngồi nhìn Thịnh mỉm cười. Thịnh ngỡ ngàng. Cô bé xinh lạ lùng, răng như những hạt ngô non, khuôn mặt có sắc trắng của hoa mận, màu hồng của hoa đào, không gợn vẻ thô thô của con gái miền rừng mà anh thường thấy. Tên em là Lý Thị Dua...
      Mùa thu ở Lèng Hồ tuyệt đẹp. Những hôm trời trong, nắng vàng như bột ngô sấy khô núi rừng ẩm ướt, con suối lớn in nền trời xanh tím sắc chàm. Nhưng thấy trời đẹp mà Thịnh lại lo buồn. 
      Bởi mùa thu là mùa thảo quả, lớp học đến mùa này thưa vắng dần. Em Vàng Thị Mỷ đã bỏ học lấy chồng, theo chồng lên rừng thu hái quả. Hôm từ chợ về, Thịnh bắt gặp mấy người trai Mèo mắt xếch, mặt mũi đỏ gay đang xúm lại kéo tay Mỷ. Mỷ cong người như con tê tê, ngã giúi giụi. Mẹ Mỷ đứng trên nhà trông xuống thì mừng. Năm ấy Mỷ mười bảy tuổi rồi, chừng đó mà không có người đến kéo về, xấu hổ lắm.
      Rồi đến Vàng A Sinh. Trong số ít các học sinh nam, Sinh là người học khá nhất. Sinh lại là lớp trưởng, vậy mà một hôm Sinh ra suối ngồi ủ rũ như cái lá héo trên phiến đá cả ngày, rồi không đến lớp nữa. Nhà Sinh ở cuối thôn. Thấy thầy giáo đến, Sinh không nói gì. Sinh đang bận rèn dao. Cái ống bễ bằng đoạn cây gỗ rỗng ruột nằm chềnh ềnh, Sinh đang hì hụi đẩy cái que sắt gắn vòng lông gà qua ống, đẩy gió vào than lửa. Dao được rèn đỏ lừ, thả vào chậu nước lạnh rên lên sùng sục, xèo xèo. Cậu bạn Sinh ngồi cạnh, rụt cổ như một con rùa, lim dim mắt. Thịnh khen: "A Sinh có nghề rèn, giỏi quá!". Sinh vẫn lẳng lặng làm, xong việc mới giải thích với thầy: không phải đồ rèn của Sinh đâu, của thằng Vàng A Xóa này đấy. Mình mượn đồ rèn của nó để sửa dao, nhưng nếu tự sửa một mình là coi thường nó nên phải bảo nó sửa cùng, đấy là cái lí người Mèo đấy. Sửa dao cho sắc để chặt cây sấy thảo quả mà! Thịnh cười: "Thế còn cái lí tự bỏ học, không nói gì với thầy giáo là làm sao?". Sinh bảo: "Chưa muốn đi học. Lúc nào muốn thì lại đi thôi".
      Thịnh nói chuyện Sinh với ông Páo. Ông Páo nói: "Thằng Sinh nó thích con Mỷ, nhưng con Mỷ đi lấy chồng nên nó buồn. Con Mỷ với thằng Sinh cùng họ Vàng, không được lấy nhau mà". Trời, thì ra cái tình yêu độc như lá ngón hoa vàng nó chẳng tha ai. Nó ăn mòn ăn mục, nó đục thủng ruột gan. Nó làm cho con người ta đang khoẻ mạnh bình thường bỗng trở thành con mèo ốm. Thịnh biết lắm... 
      Bỏ học mười ngày, Vàng A Sinh trở lại lớp. Cậu ta ngồi ở cuối dãy, sau bàn của Dơ. ít lâu sau, Thịnh để ý thấy Sinh rất hay nhìn Dơ. Một hôm, cậu ta mang đến lớp ba cuộn chỉ thêu, một xanh, một đỏ, một vàng. Không biết Sinh làm gì mà mắt Dơ đỏ lên, vứt cuộn chỉ vàng xuống chân, vùng vằng chạy sang bàn khác. Hôm đó trông Sinh lạ lắm. Bộ quần áo đen cũ kĩ trên người biến mất, thay vào đó là chiếc quần kẻ sọc, chiếc áo màu xanh lơ và cồm cộm như con bọ sừng ở cổ tay là chiếc đồng hồ điện tử nhấp nháy liên hồi, y hệt một gã trai phố huyện. Hồi đó ở vùng cao, việc ăn mặc như người Kinh còn hiếm, mới lác đác xuất hiện vài anh chàng như thế ở quanh chợ Lèng Hồ. Sinh mua bằng tiền bán thảo quả đấy!
      Thịnh dạy chưa lâu, cả lớp đã thích anh vì thầy giáo chẳng bao giờ cáu gắt, chỉ luôn miệng tươi cười và luôn miệng khen. Em Mùa tên hay, em Sú hát tốt, em Dông mi mắt đến là dài. Người được Thịnh nêu gương nhiều nhất là Dơ, nào em Dơ ngoan, nào em Dơ chẳng bao giờ nghỉ học... Nhưng một hai cô bé tinh ý rúc rích với nhau: "Cái miệng thầy khen Dơ, nhưng cái mắt thầy chỉ nhìn Dua thôi". Dua là cái em má hồng, trắng như hoa kim ngân, xinh nhất Lèng Hồ này đấy. 
      Có lần Sinh rủ Thịnh đi bẫy gà rừng. Lúc về qua suối, hai thầy trò nghỉ chân trên một tảng đá to. Sinh có điều gì bứt rứt, đứng lên ngồi xuống mấy lần rồi đột ngột hỏi Thịnh: "Thầy giáo thích Dơ à?". Thịnh chỉ cười. Ngày hôm sau đến lớp, thấy Dơ khoe cuộn chỉ thêu màu tím thầy Thịnh mới đi chợ mua cho, Sinh sầm mặt bỏ về. Thịnh nghe thấy cậu ta nói bằng tiếng Mèo với cô bé: "Thầy giáo không tốt đâu".
      Ngồi với ông Páo, Sinh lại đem chuyện ấy ra kể. Ông Páo cười:
      - Nó thích con Dơ quá rồi nên mới nói thầy giáo thế. Thầy đừng ghét nó, cái bụng nó không xấu đâu!

      4. Khoảng rừng giữa hai thôn
      Giữa Cán Hồ và Pờ Hồ có một khoảng rừng không thuộc sở hữu của bên nào. Nó trải dọc trên đường sống dao của một dải đồi, chờm ra đến con suối lớn, hai bên sườn là những nương ngô, nương lúa của hai thôn. Có năm người Mèo đến đó lấy củi, người Mán ra giữ. "Rừng này mày không có trồng, mày không được chặt củi đâu!". Người Mèo tức chảy nước mắt. "Rừng này mày cũng đâu có trồng, tao chặt được mà". Dao người Mèo tiếp tục vung lên. Chan chát chan chát. Người Mán về thôn gọi thêm người lên. Tiếng cãi vã rền vang làm chim bay táo tác. Có người giương súng kíp, hung hăng vãi đạn vào gốc cây to. Người Mèo phải thu dao về, ức lắm.  
      Khoảng rừng từ đó không bên nào động dao vào, cây to cây nhỏ thả sức chen chúc, vỏ xanh vỏ xám ken dày, tầm gửi rùm ròa, dây leo cuộn khúc ngoằn ngoèo như rắn. Người ta gọi đó là "rừng cấm".
      Một chiều cuối thu, A Sinh vác thuổng đến rủ thầy ra rừng cấm đào dúi. Hai người đi qua những nương lúa còn trơ gốc rạ, thoang thoảng mùi đất nồng nồng. Từ xa, Sinh đã chỉ cho Thịnh thấy một khóm tre úa vàng ở bìa rừng.
      - Em nhìn thấy cái hang dúi ấy mấy hôm rồi. - Sinh nói.
      Thịnh không hiểu. Cậu ta giải thích: 
      - Con dúi đào hang ở dưới gốc tre. Con dúi ăn cụt cả cái gốc cái rễ, nên lá cây tre nó mới vàng.  
      Đến nơi, Sinh dùng thuổng đào đất, chỉ cho Thịnh xem cái gốc tre bị gặm cụt. A, thì ra thằng dúi phản động phá hoại môi trường thật. Cái cửa địa đạo đen ngòm của nó lộ ra. Sinh nhổ mấy gốc rạ khô, châm lửa hun khói. Thằng phản động lì lợm cố thủ trong hang, đợi lớp rạ cháy tàn mới thò bộ mặt gian xảo ra, vừa nhảy phóc lên thì ăn một thuổng sắc lẹm của Sinh, nằm giơ bốn chân, run bần bật. "A Sinh giỏi quá!" - Thịnh trầm trồ. Sinh nhấc con vật hoen máu đỏ hoe ở mũi, đưa Thịnh:
      - Cho thầy. Thầy đem về cho Dơ, nói là của A Sinh tặng Dơ nhé.  
      Qua một nương ngô, hai thầy trò gặp Dua đi bẻ ngô về. Dua chào Thịnh, có vẻ e thẹn. Em đi một mình, dáng điềm tĩnh và hơi buồn như thường ngày, những đường hoa văn trên váy đỏ rực trong nắng chiều. Đi bên cô gái nhỏ xinh đẹp ít hơn mình năm, sáu tuổi này, lòng Thịnh trào dâng một cảm xúc rất khó tả. Vừa thoáng chút đam mê dịu dàng, vừa thân thương như một người em gái. Ở lớp, Dua nhìn thầy chăm chú lắm, hình như em cũng thầm lặng yêu thầy... Thịnh nhòm vào chiếc lù cở sau lưng Dua, thấy đựng ngô bắp và một nắm rau rừng. Anh quay lại nói nhỏ với Sinh:
      - Nhà Dua chắc thiếu thức ăn. Hay là... cho Dua con dúi?
      Sinh không nói gì, mặt thoáng sa sầm. Thịnh hiểu. Cậu ta chỉ muốn cho Dơ. 
      Mặt trời mùa thu đỏ ối đang lặn dần. ánh tà đổ loang trên nương bãi bàng bạc màu lúa ngô khô xác. Thịnh đăm đăm nhìn vào cái đuôi tóc hoe đỏ sau gáy Dua, lòng chợt mênh mang buồn. Liệu trong đời Dua, cũng như nhiều cô bé Mèo khác, có bao giờ được đến chốn thành đô một lần không? Có bao giờ được tận mắt xem một buổi ca nhạc hay, được ăn một món ăn lạ miệng không? Ngay cả Thịnh cũng chỉ biết Hà Nội có một lần. Sau này ở hẳn vùng cao dạy học, cuộc đời Thịnh sẽ xám xịt màu chàm trong một góc núi hẻo lánh nào, rồi chết đi như lá, như cây, làm phân bón cho đất. Chao ôi cũng một kiếp người... Trong khi ở chỗ nào đó, người ta tặng nhau cả cái ô tô, thì ở đây còn phải tranh giành nhau một cái cây, tiếc nhau một con dúi. Ở đâu, cũng trên đất nước này, một cái phong bì, một cái phẩy tay của ai đó bằng đồng bào Mèo làm nương ngô cả mấy năm. Ở đâu?...
      Đêm hôm đó Thịnh thấy buồn, nằm mãi không ngủ được. Ông Páo đi họp dưới xã chưa về, bà vợ ngồi sưởi bếp, còn Dơ đã ngủ. Anh trở dậy, đi lững thững một mình ra phía rừng cấm. Trời nhờ nhợ sáng, vừa sáng trăng, vừa sáng sương. Thịnh chợt nhớ đến chuyện xưa kia có người bị ma dẫn đường đã đi quanh quẩn hết đêm trong núi, cũng trong một đêm sáng trăng, sáng sương như thế này. Anh đi ra rừng cấm làm gì lúc này, không biết nữa, chỉ thấy lòng nao buồn, muốn đi. Đến gần dải rừng, anh thấy sợ. A Sinh kể với Thịnh: làng Mèo trước kia có người đàn bà bị nhà chồng hắt hủi quá, muốn chết mà không được. Mấy lần nuốt lá ngón sưng mặt, cứng người nhưng lần nào cũng bị nhà chồng đè ra trói lại, đổ nước lá cuốn tua giải độc vào mồm. Về sau chị ta treo cổ lên một cây mắm to trong rừng cấm. Nhiều người nói đi qua quãng ấy vào lúc vắng, thi thoảng vẫn nghe thấy tiếng cười khanh khách trên ngọn cây. Người Mèo hay phẫn uất, lại tin vào thế giới bên kia, nên mỗi buồn giận dù nhỏ thôi cũng khiến họ muốn thôi sống. Mà cuộc đời thì dằng dặc nỗi buồn... 
      Chân Thịnh dừng lại ở nương lúa cạnh bìa rừng. Chợt nghe có tiếng đàn môi nỉ non cất lên từ bãi đá ven suối. Ai ra đó thổi vậy nhỉ? Thịnh lặng lẽ đi xuống, nấp sau một mô đá. Kìa lạ chưa, ông Páo đang ngồi với một người đàn bà mặc quần áo Mán, bên một cụm cam thảo rờn xanh. Suối reo lăn tăn trước mặt họ, loang loáng ánh bạc. Ông Páo thổi, thanh âm rời rạc, vụng về. Rồi cũng vụng về, ông đưa những ngón tay đen đủi, chai sạn vuốt má người đàn bà kia. Hình như khuôn mặt khắc khổ, vàng võ ấy đầm đìa nước...

      5. "Bướu lạc đà"
      Một hôm giữa người Mèo Cán Hồ và người Mán Pờ Hồ xảy ra một cuộc va chạm.
      Cuộc va chạm ấy bùng nổ trên "cái bướu lạc đà".
      Chuyện thế này: tiếp giáp với đỉnh núi phía bên người Mèo là một đỉnh khác thuộc bên người Mán. Giữa hai đỉnh võng xuống một chút, từ xa nhìn lại hơi giống cái bướu của con lạc đà. Một bên cây dại phủ um tùm. Bên kia cũng là rừng già, có trồng thảo quả của người Mán. Sáng sớm, người Mèo đi làm nương, chợt thấy khói nâu lún ngún vẩn lên trên khoảng rừng phía bên phải. Còn bên trái, bên người Mèo, có tiếng dội đều đều như chim gõ kiến mổ vào thân cây.
      Há, người Mán đã sang đất bên này chặt cây đốt sấy thảo quả bên kia! Thế là như gió ào lên, xô xát. Người Mán ném dao xuống đất, nói: cái đỉnh này chọc vào mây, là đất của trời, bản Cán Hồ bé như cái bật lửa dưới kia không được lên giữ! Người Mèo nói: cái đỉnh kia cũng đất của trời, người Mán trót trồng thảo quả vào đấy rồi thì xuống Pờ Hồ khuân củi lên mà sấy quả! Chuyện nhỏ thế thôi mà làm inh ỏi mấy cánh rừng già. Người Mán cuối cùng phải thu dao về. Nghe nói người Mèo mang lên cả súng kíp có đạn bằng thỏi sắt to, chuyên dùng để bắn gấu! 
      Một ngày chủ nhật nắng hửng, Thịnh rủ Thúy quyết tâm chinh phục "bướu lạc đà", có hai cô bé Dơ và Dua làm người dẫn đường. Bốn người đi từ giữa trưa, theo đường từ Pờ Hồ lên. Thịnh khoẻ mà đi thấy nhão cả đùi. Thúy thì mếu máo, lê từng bước, chốc chốc lại kêu: 
      - Thịnh ơi, cõng Thúy với, hai chân Thúy sắp rụng ra rồi. 
      Thịnh cười, nghĩ thầm: "Giá như Thúy đừng xấu quá. Người xinh nhõng nhẽo thì đáng yêu, xấu mà nhõng nhẽo chỉ làm người ta khó chịu". Thúy lại kêu:
      - Dơ ơi, Dua ơi, đợi cô tìm thứ gì ăn với. Cô khát khô lưỡi rồi.
       Dơ lùi lũi xuyên rừng như một nữ thổ dân vùng Nam Mỹ, còn Dua đi tụt lại sau để đợi cô giáo Thúy, nét mặt buồn buồn. Em giận dỗi vì thấy thầy Thịnh luôn đi trước cùng với Dơ. Thúy vừa đi vừa ngó nghiêng, lúc thì tước một đọt đùm đũm, lúc vặt ngọn lá bứa, lúc bẻ một cây quếch ăn cái lõi chua chua. Đang mải leo núi, bỗng mọi người nghe tiếng Thúy reo. Một cây vươn cành sum xuê, quả trĩu trịt to bằng quả trứng gà rừng, màu đỏ tươi, hiện ra như cảnh đào nguyên lộng lẫy gọi mời ngay bên dốc núi.
      - Cây mác chả! Cây mác chả! - Dua kêu.
      - Ăn được không Dua?
      - Cô giáo may quá. Quả ăn như mận, ngọt mát lắm!
      Thúy vội cà nhắc chạy sang, cái chân đau mỏi kéo lê trông đến khổ. Quả mác chả rụng đầy quanh gốc. Thúy mừng phát khóc. Dua chưa sang đến nơi đã thấy Thúy trèo lên cây như một con gấu. Con gấu ục ịch, bám trên cái cành la đà, đu đưa giữa nền trời thẳm xanh. Con gấu mải mê hái quả ăn. Rồi loay hoay, chật vật, chùng mình xuống lại rướn lên, sợ hãi kêu:
      - Dua ơi, cô không xuống được, làm sao bây giờ?
      Chân Thúy tê dại, không còn điều khiển nổi. Gió thổi, cây lay. Thúy khóc. Thúy sắp rơi bịch như gấu say mật ong! Dua gọi, Thịnh và Dơ từ trên dốc hối hả chạy xuống. Ba người tạo thế chân kiềng, đứng chụm lại dưới cây mác chả. "Hai, ba, nhảy nào!". Thúy thả mình, đập tảng mông to vào mặt Thịnh. Mặt Thịnh méo xệch, còn Dơ và Dua hớn hở cười. 
      Đang tiếp tục leo dốc, mấy thầy trò gặp một gia đình người Mán đang khuân củi lên rừng thảo quả. Ông bố lùa ngựa đi trước, mồm kêu hực hực, bậm bịch vác một bó củi to. Bà mẹ đeo gùi chất củi sau lưng, còn thằng bé con, đỏ như con cua chết, đang mắm môi ì ạch lôi một cái cây còn nguyên cành lá nghều ngoào. Mặt trời chói lói trên đầu, mồ hôi ướt đầm lá cỏ. Mãi rồi cũng đến rừng già.
      Từ "bướu lạc đà" nhìn ra xa chỉ thấy núi đồi trùng điệp, mênh mông. Màu xanh đậm như mặt phải, rồi xanh xám như mặt trái một tờ giấy than, là những núi gần. Màu xanh rất non nhạt, như màu trứng sáo, là núi xa. Có màu xanh mơ hồ ở xa hơn nữa, thì không biết là mây hay là núi.
      Gia đình người Mán nấu ăn tại lều canh rừng, cạnh nơi sấy thảo quả. Nồi cơm có quai treo vào cái móc trên đống lửa. Canh bằng lá cây gì hơi giống lá lốt, trộn với gốc cây thảo quả, băm vụn. Món canh này làm Thúy rất tò mò. Ngoài ra có thịt chuột nướng, bẫy bằng vòng sắt đặt trong bụi cây. Cơm đổ ra lá thảo quả, họ mời bốn thầy trò cùng ăn. Thịnh ăn một bát, hể hả khen ngon. Còn Thúy đã no bụng mác chả, vui vẻ hỏi thằng bé: "Tẩn Láo San, em nghỉ học mấy buổi rồi nhé. Hôm nào thì đến lớp?". Thằng bé quệt mồ hôi đang rơi xuống bát: "Hôm nào sấy xong thảo quả, lại đi thôi".
      Về nhà, Thịnh và Dơ kể với ông Páo. Ông thở dài: 
      - Khổ thằng Mán, khổ đồng bào Mán quá. Phải mang củi từ dưới Pờ Hồ lên để sấy quả thì khổ quá. Tôi bảo cứ cho nó chặt cây bên đất mình mà sấy nhưng người bên mình không chịu. Nó cũng cần củi như mình mà!

      6. Suối Lèng Hồ
      Hồi học ở trường sư phạm, Thịnh yêu một cô bạn cùng lớp tên là Lý. Lý người gầy nhẳng, mắt sắc lẹm, mũi nhọn như mỏ cò. Mỗi lần hôn cô nàng, Thịnh run run cảm giác chiếc mũi ấy sẽ bổ sứt mặt mình. Những ngày đầu hay mất bình tĩnh, việc hôn nhiều khi không thực hiện được, sau tập dượt mãi, cũng quen. Thịnh chọn Lý không vì hình thức, tính nết, mà chỉ vì Lý là phó bí thư chi đoàn. Thịnh là bí thư, hai người yêu nhau qua những buổi họp hành, giao lưu, văn nghệ. Bố Lý từng là bí thư xã, đời ông Lý là bần cố nông trong sạch. Là người chăm chỉ phấn đấu, điều quan trọng nhất với Thịnh là lí lịch. Thịnh mừng.
      Giấc mộng xanh của Thịnh dần bị nứt rạn. 
      Yêu nhau một thời gian, quá nhàm chán những nụ hôn, một hôm Lý bảo Thịnh: "Tình yêu chỉ mãi thế này thôi à?". Thịnh ngẩn ngơ: "Thế còn phải làm gì?". Lý nhếch mép, cười nhạt: "Ngây thơ". Cô nàng nghĩ tới những tấm ga trắng muốt trong nhà khách, bực tức nhớ rằng từ ngày yêu Thịnh, mọi việc giữa hai người chỉ diễn ra ở ngoài trời. Rồi chán nản nói thêm: "Loại người chỉ mơ làm chính trị như anh, nhạt toẹt". 
      Lý khinh Thịnh còn vì lí do khác. Suốt một thời gian dài, anh chỉ dẫn nàng đi ăn ốc, uống nước mía, tin rằng tình yêu không cần gì khác ngoài tâm hồn. Thịnh đâu biết Lý mơ màng những món ăn trong nhà hàng sang trọng, những chiếc coóc xê viền đăng ten sột soạt mà dân thời thượng vẫn tặng người yêu... Một ngày kia, Lý tuyên bố: "Nhà tôi nghèo túng mấy đời rồi. Tôi cần một sự đổi khác". Rồi bỏ Thịnh như bỏ một đôi tất rách, mất hút theo một chàng lái xe. Đến năm học sau, trông Lý thê thảm như ma. Môi nhàu, ngực móp, người xơ mướp. Chúng bạn thì thầm: "Con này có khi bị AIDS". Thịnh suýt nhảy ngược lên. May anh chưa kịp làm gì!  
      Chuyện ấy qua rồi. Những ngày ở làng Mèo, anh thấy lòng mình trong vắt. Những cô bé Mèo mơn mởn như từ đất đá mọc lên. Một xứ sở gói trong mây trắng, xa vời những ham hố, xảo thuật, mưu mô. Một vương quốc lí tưởng để thanh lọc tâm hồn, nguyên sơ như bãi cải nương nở vàng, đắng ngọt, sạch tinh, không biết đến mùi vị gì ngoài hương đất. 
      Một lần, Thịnh mang quần áo ra suối tắm. Hoàng hôn đỏ ối nhạt dần, nhập nhoạng đổ màu chàm xuống con suối lớn chảy ào ạt, ầm ầm, nhồi bóng đen vào những hốc đá ngổn ngang. Thịnh không biết bơi nên chọn một chỗ nước không xiết, gần bờ, phòng đêm ập xuống dễ sảy chân làm mồi cho những hũm đá sâu. Vừa lách mình qua một ngách đá cao, Thịnh chết lặng. Thúy đang đứng trên tảng đá lấp xấp nước, trần truồng quay lưng lại phía anh. Nước trên người nhỏ giọt, chảy vào khe tối dưới lưng. Tảng thịt rung rung. Vệt tà dương hiếm muộn xẹt qua chân, đỏ loang như máu. 
      Thúy cúi mình vục nước, vỗ bì bạch. Thịnh chồm lên rồi khựng lại, lưỡi trong miệng cứng đờ. Rồi len lén bước lùi, nhảy lên bờ, chạy ào qua đoạn đường mòn không ngoái lại.
      Đêm ấy dù lạnh, Thịnh lột bỏ hết quần áo, vùi mình vào ổ rơm. Thịt da chà xát, ngứa ran, đỏ sần lên vì bọ chó. Ngờm ngợp trong anh một thế giới ám ảnh, mê hoặc, đầy mùi vị, hình thù. Nghĩ lại quá khứ, anh tự xỉ vả mình ngu dại, mắt mù. Thúy đẹp vô cùng, anh nhất định yêu Thúy... 
      Nhưng ý định ấy đã muộn. Một sáng đang dạy học, anh nghe tiếng xôn xao từ phía rừng cấm. Mấy bóng áo chàm chạy vọt như tên bắn qua nương lúa. Có tiếng kêu: "Cô giáo Thúy chết rồi!". 
      Trong căn nhà vách nứa ở Pờ Hồ, Thúy nằm dạng chân trên đất, bụng phồng, rốn hở, đầu ngoẹo sang bên. Một miếng xanh lè nhớt nhát từ miệng đùn ra. Các cô bé Mán xúm lại, kinh hoàng. Nồi canh cạnh đó mở vung, và trên nắp cái xô nhựa ở góc buồng có nắm lá xanh rờn giống như lá lốt. 
      Người ta khiêng Thúy đi. Nước mắt Thịnh trào ra, lòng quặn thắt. Thúy hay tha thủi trong rừng. Thúy thường lấy quả thay cơm. Thúy nhầm lá độc là rau - thứ rau chỉ thấy một lần trong bữa ăn trên rừng thảo quả. Không bao giờ được nhìn thấy Thúy nữa rồi!

      7. Lửa trong hẻm núi
      Nhưng Thúy không chết. Một ông già người Mán đã cho Thúy uống bát nước lá giải độc. Ngựa lộc cộc đưa Thúy ra huyện. Phòng giáo dục xếp cho Thúy dạy ở một xã gần trung tâm, không còn phải đi trong gió, ngủ trong mây nữa. 
      Dân hai thôn dùng tranh tre nứa lá mở rộng thêm gian lớp học. Từ đó Thịnh dạy một lớp chung gồm cả trẻ em người Mán ở Pờ Hồ. Các cô bé Mán vui nhộn không kém các cô bé Mèo. Thịnh giỏi lấy lòng, nên được tất cả học trò yêu. "Thầy Thịnh là của Cán Hồ!" - bên này tuyên bố. "Thầy Thịnh của Pờ Hồ cơ!" - bên kia tranh giành.   
      Thịnh đang vui, lại xảy chuyện đau lòng.
      Hôm ấy, nửa đêm về sáng, ông Páo lấy gậy chọc lên gác thình thình:
      - Thầy Thịnh! Thầy Thịnh! 
      Thịnh vùng dậy. Chị Vàng Thị Gếnh nhà bên đang kêu la oai oái. Chỗ buộc lợn ở đầu nhà chị chỉ còn sợi dây bị cắt đứt. Đêm ấy, chồng chị lại ngủ trên lều canh nương. 
      Thịnh dụi mắt, lao theo ông Páo. Ông Páo chạy trước đến cuối thôn, đập cửa gọi thêm Vàng A Sinh. Ba người cùng chạy về phía Pờ Hồ. Đang giữa đông, rét cắt thịt. Mồm thở khói trắng mù. Thịnh xông bừa vào khu rừng cấm đen ngòm, bị vướng dây rừng, ngã lăn mấy vòng lại chồm dậy. Đèn pin ông Páo quét loang loáng. Ra khỏi rừng cấm, đứng giữa lối rẽ vào thôn người Mán và đường ra huyện, ông Páo lưỡng lự rồi vung tay:
      Ba người ào qua quãng suối nông, lao lên đường mòn ven núi. Đêm xanh lam, ngan ngát, đẹp mơ hồ. Dải đường lờ mờ, hun hút. Ngoằn ngoèo mấy chặng, lên hết một con dốc, ông Páo kêu to vui sướng:
      - Đồng bào Mán trộm lợn của ta kia rồi!
      Xa xa dưới đường mòn, thằng trộm vác con lợn trắng lui cui chạy, một tay bươi bươi về phía sau. Ông Páo hất tay, cả ba người lao xuống. Thằng trộm qua một cây cầu treo, đến đầu cầu chợt dừng lại. Không thấy trăng trắng trên vai nó nữa. Con lợn bị văng mất, hay nó đã ném lợn xuống suối? Đuổi đến gần cầu, Thịnh nhìn thấy thằng trộm ngay trước mặt. Thì ra nó vừa hì hục giật dây leo, đè lợn ra trói lại. Hai đầu cầu, vách núi thăm thẳm rậm rì. Thác đổ ầm ầm, suối trắng lòa. Thằng trộm trông thấy ông Páo, mặt mũi xanh lét, hú lên, lòng khòng xốc lợn lên vai, dẹo dọ khung xương lẻn vào hẻm núi. Trong tiếng thác réo, tiếng lợn kêu thê thảm như tiếng người.
      Thằng nghiện! A Sinh vọt theo. "Coi chừng nó có dao!". Ông Páo vừa thét, chợt thấy tóe lửa xanh. Bóng đêm vỡ ra. Lốp bốp. Lốp bốp. Vèo vèo lau khô bùng cháy. Ôi thôi thằng trộm đốt rừng cản đường!
      A Sinh chúi đầu quay lại. Ánh sáng giây lát bừng soi gương mặt tái đi vì thất vọng của ông Páo. Bất ngờ, như hoá khùng, ông gào lên, nộ khí xung thiên, lao thẳng vào vùng lá rậm bùng nhùng đang bén lửa. Rồi chỉ tích tắc, nhanh lắm, Thịnh thấy một khối đen đổ nghiêng, rớt xuống khoảng tối bên suối đánh ùm.
      Sáng ra, mọi người xúm lại trên cầu và trên vạt rừng cháy nham nhở đen sì. Thịnh vào tận nơi, nhìn thấy rất rõ mắt ông Páo. Trong hốc đá tối sâu gần suối, bên trên là dây rừng xanh tốt bò lan, hai mắt ông vẫn mở, trắng dã, lồi ra, như tiếc nuối, ngạc nhiên về một cái chết cực kì vô nghĩa. Xoắn xuýt và cuộn mấy vòng quanh cổ chân ông là một búi rắn vằn vện trắng đen gồm những con to bằng ngón tay. Một con thấy động ngỏng đầu, mắt đen nhóng nhánh. Không biết ông chết vì chấn thương hay vì nọc rắn. Điều này không ai để ý, cả tới khi ông đã yên nghỉ dưới mồ. 

   ***

      Hôm Thịnh từ biệt làng Mèo trở về thị xã học tiếp chương trình sư phạm, anh gặp Dua ở đầu thôn. Mới sớm ra mà cô bé đã đeo lù cở nhặt củi ở bìa rừng về. Sương mù lạnh buốt cuộn bay trên bẹ những cây móc già, lấm tấm đọng trên vai áo Dua. "Theo thầy về thị xã ở đi" - Thịnh trêu cô bé. Dua đỏ mặt, nói lí nhí bằng tiếng Mèo rằng: chủ nhật này, nhà sấy thảo quả xong mang bán, em đợi thầy ở đầu chợ, gần suối, chỗ có một cây cầu. Thịnh cười gật đầu. Anh hẹn suông vậy, rồi quên, mãi sau này còn ân hận về việc đó. Các cô bé Mèo cả tin đến đau lòng... 
      Lèng Hồ bây giờ khác lắm rồi. Đường mở xuyên núi, ô tô từ phố huyện chạy đến tận nơi. Lại có đường liên thôn nối liền Cán Hồ và Pờ Hồ, chạy cắt ngang dải rừng xanh trước kia là "rừng cấm". Ngày chủ nhật, người hai thôn xuống chợ, đi chung một con đường to đang nguội se màu đất đỏ. Trẻ em hai thôn học chung trong một ngôi nhà hai tầng, quét sơn hồng, được xây theo chương trình kiên cố hoá trường lớp. 
      Hôm Thịnh lên thăm, hoa kim ngân bên suối nở trắng ngần, lấp loá, hoa linh lăng rập rờn trên núi, bên đường, vàng như màu nhẫn vàng.
      Thấy nhớ Dơ, nhớ Dua, nhớ ông Páo vô cùng. Dơ đã lấy chồng. Dua cao lớn, đẹp xinh, làm cán bộ xã.
      Mộ ông Páo nằm trên sườn núi, cỏ dại mọc xanh, gió bời bời. Thịnh chợt tiếc không kịp biết vì sao ngày đó, đêm đêm ông thường uống rượu và khóc một mình. Chỉ biết ông luôn rộng lòng trước con người, trước những điều đáng trách vẫn xảy ra, bởi cuộc sống của chúng ta còn nhiều khốn khó. 
      Với ông, thì chẳng có con người nào xấu cả.

Phạm Duy Nghĩa

    Nổi bật
        Mới nhất
        Thương nhớ Lèng Hồ
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO