“Thương nhớ đồng quê”
Xin mượn tên bộ phim của đạo diễn, NSND Đặng Nhật Minh làm tứ trò chuyện với nhà nghiên cứu PHAN CẨM THƯỢNG. Để thấy đằng sau những khảo cứu, kiểm kê, những gợi ý, tranh biện của ông là xúc cảm thẩm mỹ tinh tế, tinh thần dấn thân và niềm trăn trở trước thực tế đổi thay của làng quê Việt.
Văn hóa làng xã bị va chạm
- Tại buổi ra mắt tập II cuốn “Nghệ thuật ngày thường” của ông mới đây, nhiều người bảo ra sách như Phan Cẩm Thượng dễ quá mà cũng khó quá. Vì ông cứ đi, đến đâu cũng hình họa, ghi chép được điều gì đó từ những câu chuyện tưởng chừng nhỏ nhặt thường nhật…
- Tính ra 30 năm qua, có lẽ tôi chỉ ở nhà được khoảng 3 năm, còn lại 27 năm lang thang trên đường, sống vạ vật nơi này nơi khác. Có thể do tôi có một định mệnh là hay đi, cứ đi mà không biết hay hay dở. Về sau tôi thấy hay vì mình nhìn ra rất nhiều điều, vì nhiều người đi nhưng không ở kỹ như mình. Có nhiều tỉnh như ở Hà Bắc ngày xưa, tôi đi khắp các đường làng bằng xe đạp; có những chuyến đi bộ suốt từ Nghĩa Lộ (Yên Bái) vắt qua Cổng Trời (Lào Cai)… Bởi đi bộ, đi xe đạp, rất chậm nên tôi thấy được đời sống nhân sinh, thấy được vấn đề để hình họa và ghi chép lại, dần dần tập hợp thành sách.
![]() |
- Quá trình rong ruổi ở các làng quê, ông thấy gì trong bức tranh đời sống nhân sinh của người Việt?
- Đó là những câu chuyện như về một cô đi mua tóc ở nông thôn, phải gạ chị em có tóc dài cắt để bán. Cô kể cho tôi nghe tóc của bà già thế nào, tóc của phụ nữ ra sao… Hay chuyện về ông làm bài thơ “Áo the nâu”. Chẳng là khi ông cưới vào những năm 1953, 1954, hai vợ chồng diện lắm cũng chỉ được cái áo the nâu, còn bây giờ cháu ông diện bộ đầm dài xúng xính. Ông nhớ đến vợ ngày xưa, rồi đem ra cho cháu xem bà cưới chỉ có cái áo như thế này và tới giờ ông vẫn giữ. Đó là những câu chuyện có thực ở nông thôn, là một cách nhìn về làng quê Việt Nam mà thông qua đấy chúng ta thấy đời sống con người Việt Nam.
- Ông từng nói rằng, công nghiệp hóa, đô thị hóa và toàn cầu hóa là ba tác động có tính chất nhân loại, không loại trừ ai và có cả hai mặt lợi và hại. Soi chiếu vào thực trạng làng quê hiện nay, ông trăn trở nhất điều gì?
- Tôi không phải nhà kinh tế, nhà quản lý để đặt các vấn đề trên theo kiểu đó. Dưới góc độ nghệ thuật tôi nhìn nó ở sự nhân văn, rằng nó tác động đến con người như thế nào. Giờ đây, tất cả các yếu tố đó diễn ra mạnh nhất ở làng xã chứ không phải thành phố, đối tượng đầu tiên của nó là nông dân. Tuy nhiên, nói đến đô thị hóa, công nghiệp hóa, toàn cầu hóa, chắc họ cũng không hiểu rõ là cái gì, dù chính họ bị ảnh hưởng nhiều nhất. Văn hóa làng xã bị va chạm rồi mất đi, bản sắc văn hóa phai nhạt… là cái tôi gióng lên câu hỏi.
Làm giàu nghệ thuật bằng văn hóa dân tộc
- Văn hóa làng xã bị va chạm, sự đổ vỡ di sản là cái chúng ta vẫn đang chứng kiến từng ngày, thưa ông?
- Như ngôi chùa bây giờ dù có giữ nguyên cũng bị mất hẳn bối cảnh, khiến nó như chùa ở phố, người ta sửa chữa khiến nó không còn là chùa làng, không còn không gian lẫn quy mô, ai cũng muốn đập tan đi rồi xây lại to tướng. Di sản ở ta vốn rất yếu ớt, quá lâu rồi và không được bảo vệ tốt. Nhưng đó là một phần cái nhìn thấy, vấn đề còn là những biến đổi trong đời sống nhân sinh như trên đề cập.
![]() Hình ảnh mộc mạc đặc trưng của làng quê ngày càng khó bắt gặp ở nông thôn Việt Nam hiện nay |
- Trong “Văn minh vật chất của người Việt”, “Tập tục đời người”, “Nghệ thuật đời thường”… ông tìm về chất cổ xưa, về những làng quê, đình chùa, tìm đến các đồ dùng sinh hoạt của người Việt. Theo ông, nhận thức được những điều cổ xưa ấy có phải là đường dẫn để giữ gìn, bảo vệ văn hóa dân tộc không?
- Tôi xin dẫn ngay câu chuyện của mình. Hồi sơ tán, tôi đi học trong đình chùa thì thấy chạm khắc ở đó, về hỏi chị sau này tôi muốn nghiên cứu hình khối, hoa văn trong các đình chùa có được không. Chị tôi bảo rất tốt, vì bây giờ chẳng ai để ý cả mà còn đang phá. Giờ ngẫm lại thấy tri thức của mình đều đến từ vốn liếng ấy. Đó là kho vốn cổ tri thức dân tộc hàng mấy nghìn năm, phải rất mất công mới có được. Di sản của chúng ta, nếu tính từ thời Đông Sơn đến nay là 2.200 năm, không to mà vụn vặt, nhiều vô cùng. Tôi trông thấy hàng vạn đồ vật cổ, cứ vẽ lại, khi vẽ tốt, khi vẽ vụng, nhưng vẽ nhiều đến thuộc, qua đấy hiểu được truyền thống.
- Nhưng thưa ông, từ hiểu được truyền thống đến giữ gìn, bảo vệ được truyền thống là một đường dài?
- Khi quay ra làm nghiên cứu, tôi cũng lo lắng những di sản này sẽ mất đi đâu. Tôi nói chuyện với một anh buôn đồ cổ, anh nói rằng cái gì mình không giữ được thì để Tây họ giữ, đấy là một cách. Rồi tôi nói chuyện với ông Thái Bá Vân, ông bảo cứ cho là hỏng hết đi thì mấy cái ảnh của ông lại giá trị, tức là đình chùa phá rồi thì người ta lại xem ảnh của ông lưu lại. Đó là cách nói không biết làm thế nào trong hoàn cảnh di sản Việt Nam cứ bị phá hoại như vậy. Tôi nghĩ rằng, một trong cách để giữ gìn di sản là tôi tham gia công tác trùng tu, rồi huy động tiền để trùng tu, nhưng chỉ được một vài lần, còn lại chủ yếu ghi chép, vẽ lại, lưu trữ bằng văn bản. Hiện có một vài nhóm tự lập ra, đi chụp ảnh đình làng cổ cũng là một cách làm… Ở góc độ người làm văn hóa nghệ thuật, tôi cho rằng mỗi người, đặc biệt là nghệ sĩ phải tự làm giàu bằng kho tàng văn hóa của dân tộc.
- Xin cảm ơn ông!