Thực trạng, quan điểm và hướng sửa đổi các quy định của Hiến pháp năm 1992 về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân Việt Nam (Phần cuối)
Những quan điểm cơ bản về sửa đổi, bổ sung các quy định của Hiến pháp năm 1992 về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân Việt Nam
Trong bối cảnh đổi mới toàn diện, phát triển bền vững và hội nhập quốc tế sâu rộng của nước ta hiện nay thì việc sửa đổi, bổ sung các quy định của Hiến pháp năm 1992 về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân phải dựa trên những quan điểm chỉ đạo sau đây:
Một là, phải dựa trên quan điểm chỉ đạo của Đại hội lần thứ XI của Đảng về việc quan tâm đến quyền con người, quyền công dân và phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta chỉ rõ: “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân”; “Nhà nước bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người. Quyền và nghĩa vụ công dân do Hiến pháp và pháp luật quy định. Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ công dân”. Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa X) tại Đại hội lần thứ XI của Đảng khẳng định: “Nhà nước chăm lo, phục vụ nhân dân, bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của mọi người dân”. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020 cũng nhấn mạnh: “Mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người; coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển”; “Phải bảo đảm quyền con người, quyền công dân và các điều kiện để mọi người được phát triển toàn diện”.
Hai là, cần xuất phát từ tư tưởng chủ quyền nhân dân để quy định các quyền cơ bản của công dân (và các vấn đề khác của Hiến pháp sửa đổi) theo hướng bằng Hiến pháp, Nhà nước có trách nhiệm ghi nhận, bảo đảm, mở rộng các quyền cơ bản của công dân chứ không phải là ban phát các quyền của công dân.
Ba là, phải xác định được rằng, đối với quyền con người, Hiến pháp năm 1992 sửa đổi chỉ quy định như một lời tuyên bố chính trị và không gắn quyền của con người với quyền công dân như Điều 50 của Hiến pháp hiện hành, bởi vì như vậy đã đồng nhất quyền của con người với quyền công dân. Bên cạnh đó, còn cần thống nhất quan điểm Hiến pháp năm 1992 sửa đổi chỉ quy định các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, chứ không quy định hết quyền và nghĩa vụ của công dân, bởi đây là quan điểm lập hiến đúng đắn được thực hiện từ Hiến pháp năm 1959 đến Hiến pháp năm 1992 và nó phù hợp với vị trí và vai trò của Hiến pháp với tư cách là Luật cơ bản của xã hội.
Bốn là, cần kế thừa có chọn lọc những giá trị đã đạt được trong các quy định của 4 bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980 và 1992 về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân Việt Nam. Mỗi Hiến pháp phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh và trình độ phát triển của xã hội Việt Nam trong từng giai đoạn cách mạng và nhằm thực hiện những nhiệm vụ cơ bản của cách mạng nước ta, vì thế cần tiếp thu kinh nghiệm và kế thừa những thành tựu lập hiến đã đạt được liên quan đến quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân Việt Nam qua 4 bản Hiến pháp.
Năm là, phải xuất phát từ khả năng thực tế và trình độ phát triển của xã hội cho việc thực thi các điều luật bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân Việt Nam. Quyền con người là khái niệm rất rộng và một khi được Nhà nước thông qua pháp luật thừa nhận vào bảo đảm thực hiện thì trở thành quyền công dân. Tuy nhiên, việc ghi nhận quyền con người trong pháp luật mà trước hết trong Hiến pháp cũng phải có giới hạn vì nếu ghi nhận nhiều mà không có điều kiện thực hiện thì các điều luật chỉ dừng lại ở mức tuyên bố, tuyên ngôn, không có tính thực tế, như quyền có nhà ở, quyền chữa bệnh và quyền học tập không mất tiền đã từng được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1980.
Sáu là, cần phù hợp với tên gọi, nội dung, sự phân loại và cách sắp xếp các quyền con người trong các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập. Chẳng hạn, Công ước về các quyền dân sự và chính trị ngày 16.12.1966 (Việt Nam gia nhập ngày 24.9.1982), Công ước về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa ngày 16.12.1966 (Việt Nam gia nhập ngày 24.9.1982).
Định hướng và phương án cụ thể sửa đổi, bổ sung các quy định của Hiến pháp năm 1992 về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân Việt Nam
Nhằm khắc phục những hạn chế trong các quy định của Hiến pháp hiện hành về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân Việt Nam, cũng như trên tinh thần các quan điểm về sửa đổi, bổ sung những quy định đó được nêu ở trên, theo quan điểm của chúng tôi, việc sửa đổi, bổ sung các quy định của Hiến pháp năm 1992 về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân Việt Nam cần theo những định hướng chủ yếu sau đây.
Thứ nhất, không nên để các quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân Việt Nam nằm rải rác ở các chương của Hiến pháp như hiện nay mà nên tập trung vào một phần riêng (nếu Hiến pháp năm 1992 sửa đổi được kết cấu theo phần, chương, mục) hoặc một chương riêng (nếu Hiến pháp sửa đổi vẫn kết cấu theo chương như hiện nay).
Thứ hai, phân loại các quy định hiến pháp về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân Việt Nam thành hai nhóm lớn. Nhóm một gồm các quy định xác lập những nguyên tắc chung, mang tính chỉ đạo, thể hiện chính sách và thái độ của Nhà nước Việt Nam về tôn trọng quyền con người ở Việt Nam; người Việt Nam định cư ở nước ngoài và người nước ngoài ở Việt Nam, cũng như về người nước ngoài xin cư trú tại Việt Nam do bị bức hại vì đấu tranh cho tự do, độc lập dân tộc hoặc vì sự nghiệp khoa học. Nhóm hai gồm các quy định về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân Việt Nam trong 5 lĩnh vực chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội.
Thứ ba, bằng kỹ thuật lập hiến tiên tiến thể hiện nội dung hai nhóm quy định trên dưới dạng các điều luật và xếp các điều luật đó vào một phần riêng gọi là Phần Nhà nước với cá nhân hay Quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân Việt Nam (nếu Hiến pháp sửa đổi được kết cấu theo phần, chương như trên đã nói), gồm 2 chương – chương một gồm các điều quy định những nguyên tắc chung, mang tính chỉ đạo trong chính sách và thái độ của Nhà nước về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân Việt Nam, người nước ngoài xin cư trú ở Việt Nam; chương hai gồm những điều quy định các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân Việt Nam, trong đó cần sắp xếp các điều luật về các quyền cơ bản của công dân theo thứ tự các quyền về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội.
Nếu Hiến pháp sửa đổi vẫn được kết cấu theo chương như hiện nay thì xếp các điều luật đó vào 2 mục của một chương cũng với tên gọi là Nhà nước với cá nhân hay Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân Việt Nam. Trong đó, Mục 1 quy định những nguyên tắc chung, mang tính chỉ đạo trong chính sách và thái độ của Nhà nước về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài ở Việt Nam, người nước ngoài xin cư trú ở Việt Nam. Mục 2 quy định các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân Việt Nam, trong đó cũng sắp xếp các điều luật về các quyền cơ bản của công dân theo thứ tự các quyền về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội.
Thứ tư, ngoài những quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân Việt Nam hiện có trong Hiến pháp năm 1992, cần quy định bổ sung những quyền và nghĩa vụ cơ bản mới của công dân Việt Nam cho phù hợp với sự phát triển và yêu cầu của xã hội hiện nay, như: quyền được sống trong môi trường tự nhiên trong sạch, quyền được tẩy chay hàng hóa của cơ sở sản xuất đã gây ô nhiễm và suy thoái môi trường, quyền được cứu trợ xã hội trong thảm họa thiên nhiên, quyền được sống trong môi trường văn hóa lành mạnh, quyền phản biện chính sách và pháp luật của Nhà nước, quyền đình công, quyền của người đồng tính được hưởng sự bình đẳng xã hội với những người tính dục khác...; nghĩa vụ bảo vệ môi trường, nghĩa vụ khắc phục hậu quả khi ô nhiễm và suy thoái môi trường, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại khi gây ô nhiễm và suy thoái môi trường, nghĩa vụ bảo vệ di sản văn hóa dân tộc...
Thứ năm, trong điều luật quy định quyền cơ bản của công dân cần xác lập kèm theo bảo đảm của Nhà nước cho quyền đó và trong điều luật xác lập nghĩa vụ cơ bản của công dân cũng đồng thời quy định quyền của Nhà nước được áp dụng biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ ấy.
Thứ sáu, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân Việt Nam cần quy định một cách trực tiếp theo công thức công dân có quyền... và công dân có nghĩa vụ..., đồng thời cũng bỏ các quy định quyền và nghĩa vụ của công dân Việt Nam thông qua việc định nghĩa dạng như Lao động là quyền và nghĩa vụ của công dân (Điều 55 Hiến pháp năm 1992) và Học tập là quyền và nghĩa vụ của công dân (Điều 59 của Hiến pháp năm 1992).
Thứ bảy, bỏ cách quy định nhiều quyền hay nhiều nghĩa vụ cơ bản của công dân trong cùng một điều luật (ví dụ các Điều 53, 60, 61 Hiến pháp năm 1992) mà nên tách ra mỗi điều luật quy định một quyền cơ bản hay một nghĩa vụ cơ bản của công dân.
Thứ tám, diễn đạt lời văn trong từng điều luật phải bảo đảm độ chính xác về ngữ pháp, ngắn gọn, súc tích, cô đọng, rõ ràng, cụ thể và dễ hiểu trong từng điều luật chứ không dài và ôm đồm nhiều vấn đề như trong một số điều của Hiến pháp năm 1992 hiện hành (chẳng hạn các Điều 59, 61, 63 Hiến pháp năm 1992).
Về phương pháp sửa đổi, bổ sung cụ thể, phương án thứ nhất: Phương án này đụng chạm tới toàn bộ kết cấu của cả Hiến pháp năm 1992 hiện hành. Có nghĩa là phải kết cấu lại Hiến pháp năm 1992 thành Lời nói đầu, các phần, chương, điều, khoản.
Phần I (với tên gọi có thể là “Chế độ chính trị - xã hội và các chính sách của Nhà nước”), gồm các chương sau: Chương I: “Chế độ chính trị - xã hội”; Chương II: “Chế độ kinh tế”; Chương III: “Văn hóa, giáo dục, khoa học – công nghệ, xã hội”; Chương VI: “Quốc phòng, an ninh và đối ngoại”.
Phần II – Nhà nước và cá nhân (hay Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân Việt Nam) gồm 2 chương – Chương I quy định những vấn đề mang tính nguyên tắc chung trong chính sách, thái độ của Nhà nước đối với cá nhân (hay đối với quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân Việt Nam), gồm: điều kiện pháp lý để được coi là công dân Việt Nam; nguyên tắc tôn trọng quyền con người ở Việt Nam; các nguyên tắc về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân Việt Nam như: quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân, Nhà nước bảo đảm các quyền công dân còn công dân phải làm tròn nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước và xã hội, quyền và nghĩa vụ của công dân do Hiến pháp và luật quy định, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật; việc bảo hộ của Nhà nước Việt Nam đối với quyền lợi chính đáng của người Việt Nam định cư ở nước ngoài, nghĩa vụ của người nước ngoài cư trú ở Việt Nam và việc bảo hộ của Nhà nước Việt Nam đối với quyền lợi chính đáng của họ; việc xem xét cho cư trú của Nhà nước Việt Nam đối với người nước ngoài đấu tranh vì tự do, độc lập dân tộc, chủ nghĩa xã hội, dân chủ, hòa bình, khoa học bị bức hại. Chương II chỉ quy định các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân Việt Nam về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội.
Ngoài ra, còn Phần III – Cơ cấu tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, gồm các chương quy định về QH, UBTVQH, Chủ tịch Nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, HĐND và UBND, Tòa án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân; Phần IV – Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, Thủ đô, Ngày Quốc khánh; Phần V – Hiệu lực của Hiến pháp và việc sửa đổi Hiến pháp.
Trên thế giới, có một số nước cũng thiết kế Hiến pháp theo mô hình phần, chương, điều như: Singapore (Hiến pháp năm 1963), Liên Xô cũ (Hiến pháp năm 1977), Liên bang Nga (Hiến pháp năm 1993)...
Phương án thứ hai: Ngoài Lời nói đầu thì Hiến pháp được tạo thành bởi các chương, trong chương có mục, trong mục có điều và trong điều có khoản. Như vậy, nếu theo phương án này thì các quy định Hiến pháp về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân Việt Nam được chứa đựng trong một chương có tên là Nhà nước và cá nhân (hay Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân Việt Nam), gồm 2 mục. Mục 1 quy định những vấn đề mang tính nguyên tắc chung trong chính sách, thái độ của Nhà nước đối với cá nhân (hay đối với quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân Việt Nam) như đã đề cập ở trên. Mục 2 chỉ quy định các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân Việt Nam về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội.
Hiến pháp của nhiều nước cũng được kết cấu theo các chương, điều như Hiến pháp Nhật Bản ngày 3.11.1946, Hiến pháp Pháp ngày 4.10.1958, Hiến pháp Thụy Điển năm 1974 (lần sửa đổi mới nhất năm 2011), Hiến pháp Ba Lan năm 1997, Hiến pháp CHDCND Lào năm 2003, Hiến pháp Thái Lan năm 2007.
Đặc biệt, việc thiết kế Hiến pháp theo chương, mục, điều đã được áp dụng ở nước ta trong Hiến pháp năm 1946 và một số nước trên thế giới cũng áp dụng mô hình này như Úc (Hiến pháp năm 1900), Hàn Quốc (Hiến pháp năm 1948, được sửa đổi, bổ sung năm 1987), CHND Trung Hoa (Hiến pháp năm 1982, được sửa đổi, bổ sung năm 2004).