Góp phần xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác, phát triển
- Thưa ông, Ủy ban Đối ngoại mới đây đã hoàn thành chuyên đề giám sát Việc thực hiện các điều ước quốc tế về biên giới, lãnh thổ giữa Việt Nam với Trung Quốc, Lào và Campuchia. Đây là chuyên đề giám sát khá đặc biệt về quy mô, thời gian tiến hành và cả địa bàn giám sát. Xin ông cho biết rõ hơn về chuyên đề giám sát này?
- Trong hơn ba năm qua, Ủy ban Đối ngoại đã triển khai chuyên đề giám sát Việc thực hiện các điều ước quốc tế về biên giới, lãnh thổ giữa Việt Nam với Trung Quốc, Lào và Campuchia. Cụ thể, từ năm 2021 đến năm 2022, Đoàn giám sát đã triển khai 5 đoàn khảo sát và giám sát tại 7 tỉnh biên giới Việt Nam - Trung Quốc (Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh). Năm 2023, Đoàn giám sát đã triển khai 2 chuyến giám sát tại 10 tỉnh biên giới Việt Nam - Campuchia (Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Bình Phước, Tây Ninh, Long An, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang), tổ chức hội nghị giám sát; họp, làm việc với các bộ, ngành liên quan trước và sau khi giám sát thực địa. Đầu năm 2024, Ủy ban Đối ngoại đã giám sát thực địa biên giới và tổ chức hội nghị giám sát với 10 tỉnh trên tuyến biên giới giữa Việt Nam với Lào (Điện Biên, Sơn La, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam và Kon Tum).
Đây là chuyên đề giám sát có ý nghĩa đặc biệt, lần đầu tiên được triển khai với quy mô toàn tuyến biên giới trên đất liền giữa Việt Nam với ba nước có chung đường biên giới. Chuyên đề giám sát này đã giúp các cơ quan của Quốc hội, các đại biểu Quốc hội cập nhật tình hình, đánh giá kết quả, hạn chế trong việc thực hiện các điều ước quốc tế về biên giới, lãnh thổ và công tác quản lý biên giới trên đất liền giữa Việt Nam với ba nước láng giềng.
Các kiến nghị, kết luận của Đoàn giám sát đã được lãnh đạo Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương nghiêm túc triển khai thực hiện. Chuyên đề giám sát này kéo dài hơn so với những chuyên đề giám sát khác của Ủy ban là bởi lẽ Việt Nam có đường biên giới trên đất liền dài gần 5.000 km tiếp giáp với Trung Quốc ở phía bắc, với Lào ở phía Tây và Campuchia ở phía Tây Nam, đi qua 25 tỉnh biên giới của Việt Nam và 21 tỉnh của các nước láng giềng.
Ở một số địa bàn, đoàn giám sát của Ủy ban Đối ngoại thực hiện khảo sát thực địa, kiểm tra cột mốc, đường biên giới tại từng địa phương, từng tỉnh. Thời gian tiến hành chuyên đề giám sát kéo dài là cần thiết để Ủy ban Đối ngoại có cái nhìn đầy đủ, toàn diện, sát thực tiễn về việc thực hiện các cái điều ước quốc tế về biên giới, lãnh thổ giữa Việt Nam với ba nước có chung đường biên giới trên đất liền.
Chuyên đề giám sát này có ý nghĩa đặc biệt bởi lẽ các vấn đề về biên giới lãnh thổ luôn là vấn đề thiêng liêng và nhạy cảm, được cử tri và Nhân dân đặc biệt quan tâm. Công tác biên giới lãnh thổ rất hệ trọng, liên quan trực tiếp đến chủ quyền biên giới quốc gia; liên quan đến hợp tác của ta với các nước có chung đường biên giới và liên quan đến việc thực hiện các điều ước quốc tế của ta với các nước bạn. Vì vậy, việc thực hiện nghiêm túc, đầy đủ và hiệu quả các điều ước quốc tế về biên giới, lãnh thổ trực tiếp góp phần xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác, phát triển; là cơ sở để chúng ta phát triển kinh tế - xã hội khu vực biên giới nói riêng cũng như kinh tế - xã hội của đất nước nói chung.
- Chuyên đề giám sát này tập trung vào những nội dung nào, thưa ông?
- Đến thời điểm này, chuyên đề giám sát Việc thực hiện các điều ước quốc tế về biên giới, lãnh thổ giữa Việt Nam với Trung Quốc, Lào và Campuchia đã hoàn thành, với ba nội dung giám sát chính: giám sát bằng văn bản dựa trên báo cáo của các bộ, ngành, các địa phương có liên quan; làm việc trực tiếp với các bộ, ngành, địa phương có liên quan và giám sát/khảo sát thực địa.
Đoàn giám sát đã rà soát các Điều ước quốc tế về biên giới, lãnh thổ giữa Việt Nam với ba nước có chung đường biên giới trên đất liền; rà soát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật về biên giới lãnh thổ và các văn bản nhằm tổ chức, triển khai các Điều ước quốc tế về biên giới, lãnh thổ giữa Việt Nam với ba nước; đánh giá việc tổ chức bộ máy, cơ chế hoạt động, phối hợp trong tổ chức thực hiện các Điều ước quốc tế về biên giới lãnh thổ của Chính phủ, các bộ, ngành liên quan và các tỉnh có đường biên giới chung với ba nước; đánh giá vai trò, hoạt động và trách nhiệm của các cơ quan hữu quan trong việc chỉ đạo phối hợp, đôn đốc, giám sát việc triển khai công tác quản lý biên giới; đánh giá kết quả công tác phân giới cắm mốc; công tác quản lý, bảo vệ đường biên, mốc giới trên thực tế theo quy định của các Điều ước quốc tế; đánh giá các vi phạm đối với các văn kiện về biên giới trên đất liền và tình hình giải quyết các vi phạm này trên tuyến biên giới Việt Nam với các nước; đánh giá công tác quản lý qua lại biên giới của người dân, phương tiện và hàng hóa; công tác phối hợp với các nước có chung đường biên giới nhằm duy trì, bảo đảm an ninh, trật tự trên vùng biên giới; công tác tuyên truyền về quản lý, bảo vệ đường biên giới.
- Qua giám sát, ông đánh giá thế nào về việc thực hiện các Điều ước quốc tế về biên giới, lãnh thổ giữa Việt Nam với ba nước có chung đường biên giới trên đất liền với nước ta?
- Về cơ bản, việc thực hiện các Điều ước về biên giới lãnh thổ giữa Việt Nam với Trung Quốc, Lào và Campuchia đã được thực hiện tốt trên một số phương diện chính. Cụ thể, công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương trong công tác biên giới lãnh thổ được triển khai kịp thời, quyết liệt và tới tận cơ sở. Trong quan hệ với các nước bạn, đặc biệt là trong công tác phân giới cắm mốc, ta đã cơ bản hoàn thành với Trung Quốc; với Lào đã hoàn thành ở giai đoạn hai là tăng dày và tôn tạo các mốc giới; với Campuchia, hai bên đã thống nhất phân giới cắm mốc và hoàn thành được 84% đường biên giới trên đất liền. Như vậy, cơ bản công tác biên giới được thực hiện tương đối tốt với các Điều ước về biên giới lãnh thổ. Công tác quản lý đường biên, mốc giới trên thực địa cũng cơ bản được thực hiện tốt.
Tình hình biên mậu nhìn chung được duy trì, ngoại trừ trong thời gian xảy ra đại dịch Covid-19, trên các tuyến biên giới, hoạt động giao thương bị ảnh hưởng, nhất là hoạt động xuất nhập cảnh bị ảnh hưởng đáng kể; các hoạt động khác diễn ra bình thường. Ở một số khu vực biên giới, tại các cửa khẩu quốc tế, hoạt động xuất nhập cảnh, xuất nhập khẩu hàng hóa cũng được thực hiện bài bản và từng bước hiện đại hóa.
Công tác quản lý an ninh trật tự, phòng chống tội phạm ở khu vực biên giới đã được lực lượng chức năng của ta và các lực lượng chức năng của các nước bạn đặc biệt quan tâm, không chỉ trong thời gian dịch bệnh mà ngay cả khi chưa có dịch hoặc sau khi đại dịch Covid-19 đã được kiểm soát. Có thể nói đây cũng là một trong những điểm sáng trong công tác biên giới của chúng ta.
- Ông đánh giá thế nào về sự phối hợp giữa các lực lượng chức năng của nước ta với các nước có chung đường biên giới với Việt Nam trong thời gian qua?
- Ở các cấp cơ sở đã có sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng của các nước bạn trong công tác biên giới nói chung và trong thực hiện các Điều ước quốc tế về biên giới lãnh thổ. Chính quyền địa phương cũng như là các cơ quan chức năng, trực tiếp là Bộ đội Biên phòng đã có sự phối hợp thường xuyên và chặt chẽ với các cơ quan chức năng và chính quyền của phía bạn thông qua rất nhiều cơ chế khác nhau như: các cơ chế giao ban, trao đổi thông tin thường xuyên; cơ chế trao đổi thông tin khi có sự kiện biên giới; cơ chế tuần tra chung; các hình thức giao lưu hữu nghị, kết nghĩa giữa Bộ đội Biên phòng với các lực lượng biên phòng, lực lượng chức năng phía bạn; hay về mặt chính quyền thì có cơ chế kết nghĩa ở cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã và thậm chí là cấp thôn, bản… Tất cả các cơ chế này giúp tạo nên các hình thức phối hợp thường xuyên, khá chặt chẽ giữa ta với các nước bạn, tất nhiên là ở mỗi nơi thì tính chất và mức độ phối hợp có sự khác biệt.
Sẽ tái giám sát để công tác biên giới lãnh thổ ngày càng tốt hơn
- Từ chuyên đề giám sát cho thấy có những khó khăn, hạn chế gì trong việc thực hiện các điều ước quốc tế về biên giới, lãnh thổ giữa ta với ba nước láng giềng trong thời gian qua, thưa ông?
- Qua giám sát, chúng tôi thấy rằng, mặc dù việc thực hiện các điều ước quốc tế về biên giới, lãnh thổ giữa ta với Trung Quốc, Lào và Campuchia đã đạt được rất nhiều kết quả tích cực, song bên cạnh đó vẫn còn những khó khăn, hạn chế nhất định. Cụ thể, việc phân giới cắm mốc chưa hoàn thành được ở một số khu vực; việc quản lý đường biên, mốc giới ở một số khu vực còn gặp nhiều khó khăn do đặc thù địa bàn, ví dụ là ở những vùng núi, rẻo cao của Tổ quốc, không có người dân sinh sống, đường sá đi lại khó khăn dẫn tới những khó khăn chung cho các lực lượng chức năng trong việc tuần tra, bảo vệ đường biên, mốc giới.
Ở một số khu vực đường biên, mốc giới có sự thay đổi vì nhiều lý do: địa hình, khí hậu, thời gian… Một số khu vực đường biên giới ở sông suối thì cột mốc hoặc các cọc dấu có thể bị thay đổi do xói mòn, sạt lở hoặc xuống cấp nghiêm trọng. Đoàn giám sát thấy rằng, cần quan tâm hơn nữa tới các biện pháp gia cố để giữ vững đường biên, cột mốc.
Về công tác quản lý đường biên giới, nhìn chung đã được lực lượng chức năng của chúng ta triển khai quyết liệt, tuy nhiên lực lượng còn rất mỏng, đường biên giới thì dài, đường tuần tra biên giới xuống cấp, chưa được đầu tư tương xứng và phương tiện quản lý biên giới chưa được đổi mới kịp thời.
Cũng qua giám sát cho thấy, việc phát huy vai trò của các cửa khẩu, nhất là các cửa khẩu quốc tế, cửa khẩu chính trong thúc đẩy giao thương, giao lưu nhân dân ở một số khu vực còn hạn chế. Một trong những nguyên nhân là do một số nội dung của các Điều ước quốc tế quy định chưa rõ hoặc đã quy định nhưng chưa được cụ thể hóa. Đơn cử, vấn đề đi lại qua biên giới đối với cư dân ở khu vực biên giới đã được quy định trong các điều ước quốc tế giữa ta với các nước láng giềng.
Theo đó, hai bên thống nhất việc cấp giấy chứng nhận nhằm tạo thuận lợi cho cư dân ở khu vực biên giới của hai nước qua lại giữa hai bên, nhưng trên thực tế, quy định này lại chưa cụ thể hóa là mẫu giấy chứng nhận để một bên công nhận là như thế nào. Hay liên quan tới vấn đề kinh tế - xã hội ở khu vực biên giới, thực tiễn cho thấy đời sống của một bộ phận cư dân ở khu vực biên giới, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số còn gặp nhiều khó khăn, dẫn tới mức độ gắn bó của nhân dân biên giới với khu vực biên giới đây đó còn có mức độ. Xuất phát từ thực tế này, Đoàn giám sát cho rằng, chúng ta cần phải quan tâm hơn nữa tới phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực biên giới để bà con khu vực biên giới yên tâm bám đất, bám nương để nhân dân biên giới thực sự là những “cột mốc sống”, là lực lượng tại chỗ tham gia bảo vệ đường biên, mốc giới.
- Từ những thực trạng trong công tác quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia mà Đoàn giám sát thấy được qua chuyên đề giám sát, Ủy ban Đối ngoại đã đưa ra những kiến nghị chính sách gì, thưa ông?
- Báo cáo giám sát đã đưa ra một số nhóm kiến nghị với Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương: nhóm kiến nghị thứ nhất là cần tăng cường nguồn lực đầu tư, nhất là các chính sách đặc thù nhằm hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội khu vực biên giới, quan tâm trực tiếp đến người dân sống ở khu vực biên giới. Nhóm kiến nghị thứ hai là tăng cường đầu tư cho các công trình biên giới như: đường tuần tra biên giới, hệ thống đường biên - mốc giới, các kè sông suối... để bảo đảm sự ổn định, vững chắc của đường biên và mốc giới. Nhóm kiến nghị thứ ba liên quan đến việc phát huy vai trò, chức năng của các cửa khẩu, cửa khẩu quốc tế, cửa khẩu quốc gia, cửa khẩu chính… để các cửa khẩu thật sự là những cửa ngõ thông thương, thúc đẩy trao đổi thương mại phát triển, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, thúc đẩy giao lưu nhân dân ở khu vực biên giới. Ở đây có cả vấn đề về chính sách liên quan đến qua lại không chỉ cho cư dân biên giới mà còn cho các hoạt động xuất nhập cảnh nói chung. Nhóm kiến nghị thứ tư là đổi mới, tăng cường trang bị thiết bị hiện đại cho các lực lượng trực tiếp làm công tác quản lý biên giới. Đây cũng là nội dung rất cần thiết để bảo đảm đường an ninh, trật tự biên giới. Đường biên giới của chúng ta rất dài, vì vậy, nếu quản lý theo cách truyền thống thì sẽ ngày càng khó hơn và chắc chắn sẽ cần những trang thiết bị hiện đại hơn để thực hiện quản lý biên giới, bảo vệ đường biên, mốc giới hiệu quả hơn.
Tới đây, Ủy ban Đối ngoại cũng sẽ xin chủ trương của Ủy ban Thường vụ Quốc hội để tiếp tục có các hoạt động "hậu giám sát", nhằm tiếp tục giám sát việc thực hiện các kiến nghị của Đoàn giám sát liên quan đến công tác quản lý, bảo vệ đường biên giới cũng như việc thực hiện các Điều ước quốc tế về biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và các nước láng giềng. Đối với những hạn chế, tồn tại mà Đoàn giám sát đã phát hiện, các cơ quan đã thống nhất đây là những vấn đề cần phải giải quyết thì sau khi Đoàn giám sát kiến nghị với Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ và các bộ, ngành liên quan, Ủy ban Đối ngoại sẽ tái giám sát để tiếp tục đánh giá xem những vấn đề đó đã được giải quyết như thế nào; các giải pháp, kiến nghị đã được thực hiện như thế nào; khó khăn, vướng mắc ở đâu để tiếp tục có giải pháp tháo gỡ. Thông qua đó, các địa phương, đơn vị có liên quan có các biện pháp tuyên truyền cần thiết tới cấp ủy, chính quyền, Nhân dân để nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện, nhất là ở cấp cơ sở, để bảo đảm thực hiện thống nhất các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác biên giới lãnh thổ, góp phần xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển giữa Việt Nam và các nước có chung đường biên giới với ta.
- Xin cảm ơn ông!