Thư viết từ chiến hào
Mãi đến khi đặt chân vào đại học Pháp tôi mới có dịp đọc Lênin. Trước đó, ở đại học Sài Gòn, thư viện rất phong phú nhưng chỉ thiếu thứ ấy, hoặc có mà tôi không biết, hoặc biết nhưng chỉ loáng thoáng vài trang. Một trong những quyển sách mà tôi tìm đọc đầu tiên là cuốn “Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản”.
![]() |
Tất nhiên, bởi vì đâu phải chỉ mình tôi chịu ảnh hưởng của phe tả lúc đó! Thời tôi qua Pháp là thời mà các tác giả “xét lại” ở Mỹ, đặc biệt là Gabriel Kolko, đặt lại vấn đề nguyên nhân của chiến tranh lạnh, nghĩa là chiến tranh đang tàn phá quê hương tôi. Họ đặt nặng vai trò của các thế lực “quân-kỹ” - quân sự và kỹ nghệ, cấu kết với nhau trong một mạng lưới làm ăn chung, lợi ích chung. Chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc lại là đề án nghiên cứu của tôi lúc đó. Tôi đọc Lênin, rồi tôi đọc Rosa Luxemburg để hiểu thêm mối tương quan giữa sự bành trướng của kinh tế tư bản chủ nghĩa và chiến tranh giữa các cường quốc Âu châu mà tranh giành thuộc địa là một động cơ thúc đẩy.
Không phải tôi không biết rằng Chiến tranh thế giới thứ Nhất đã xảy ra vì nhiều nguyên nhân phức tạp đan xen nhau chứ không phải riêng gì nguyên nhân kinh tế. Hệ thống liên minh là một. Các cường quốc Âu châu hồi đó kèn cựa nhau, nghi ngờ nhau, và để phòng thủ, họ lập các liên minh, đưa đến việc thành hình hai liên minh đối nghịch: Đức, Áo-Hung, Ý một bên, Anh-Pháp-Nga bên kia. Tranh giành nhau ảnh hưởng trên các nước vùng Balkan lân bang, Áo-Hung gây chiến với Serbie, buộc Nga phải nhảy vào bênh vực. Đồng minh với Áo-Hung, Đức tuyên chiến với Nga. Đồng minh với Nga, Pháp Anh tuyên chiến với Đức. Tất cả các nước Âu châu lao vào chiến tranh. Trừ nước Ý lúc đầu vì anh này phản phe: bất tham chiến cùng phe với bạn, Ý bỏ bạn, quay ra liên minh với Pháp Anh. Dân tộc chủ nghĩa là nguyên nhân quan trọng thứ hai. Đức Ý say men trên đà thống nhất, Pháp nuôi mộng phục thù sau khi mất vùng Alsace-Lorraine, các dân tộc thiểu số ở Balkan đòi lãnh thổ riêng để thành lập những quốc gia riêng. Ai cho họ thỏa mãn mộng ước? Các đại cường chung quanh chỉ chực xông vào để can thiệp thôi. Tranh nhau trên đất, họ lại tranh nhau trên biển. Hạm đội của Anh mạnh nhất lúc đó, đưa Anh lên địa vị thống trị thế giới, nhưng hạm đội của Đức đã canh tân không ngờ, có khả năng chiếm ưu thế, đe dọa lưu thông trên biển của cả Anh lẫn Mỹ. Mỹ ngần ngừ, rồi rốt cuộc phải nhảy vào tham chiến để ngăn chận không cho Đức phá vỡ quân bình lực lượng ở Âu châu. Khắp nơi, căng thẳng giữa các nước lớn kích thích tinh thần quốc gia, các đảng xã hội hoài công hô hào đoàn kết quốc tế vô sản, Jean Jaurès ngã gục dưới họng súng của một anh chàng thanh niên cuồng tín chiến tranh. Ba ngày sau khi ông chết, thế chiến mở màn, Đệ Nhị Quốc Tế tan tành xác pháo. Thay vì “vô sản toàn thế giới, hãy đoàn kết lại”, chiến tranh chứng kiến quang cảnh bi đát của “vô sản toàn thế giới hãy tàn sát nhau”. Vài hàng sơ lược như vậy không đủ tóm tắt tý nào các nguyên nhân phức tạp của Thế chiến thứ Nhất. Nguyên nhân chằng chịt như rừng. Bởi vậy, khi đọc Lênin, cái đầu dường như được giải phóng, bởi vì đôi khi nó cũng cần đơn giản. Ông cắt nghĩa:
“Chống lại nhóm Pháp-Anh, một nhóm tư bản khác nổi lên, nhóm Đức, ngoạm mồi dữ hơn... và còn được vũ trang bằng nhiều phương thức mới: phát triển hơn về sản xuất tư bản, kỹ thuật tối tân hơn, một hệ thống tổ chức không ai bì kịp... Chiến tranh hiện nay cũng vậy, là sản phẩm của một chính sách giai cấp đấu tranh, chính sách của hai tay khổng lồ mà trước khi đánh nhau đã trải ra khắp địa cầu những cái vòi bạch tuột bóc lột tài chính và đã chia nhau kinh tế của cả thế giới. Hai thế lực ấy tất nhiên phải đụng độ nhau, bởi vì, trên quan điểm tư bản, một cuộc chia chác thống trị mới đã trở thành không tránh được”.
Sự thật không bao giờ đơn giản, tôi biết thế, nhưng với tôi lúc đó, như một kẻ tân tòng được đọc tân thư, đọc được những cắt nghĩa như thế rất sảng khoái. Sảng khoái như khi đọc câu nói nổi tiếng của văn hào Anatole France mà tôi rất mê lúc còn đi học: “Người ta tưởng chết cho tổ quốc, hóa ra chết cho bọn kỹ nghệ gia”. Giống như bao nhiêu thanh niên nhận được lệnh nhập ngũ và xông ra mặt trận với lý tưởng yêu nước, Anatole France đã bênh vực chiến tranh lúc mở đầu để rồi cay đắng thốt ra câu đó về sau. Ông ấy đâu có tả khuynh lắm, mà còn nói vậy, huống hồ “phe tả” mới toanh như chúng tôi!
Trong nghề nghiệp dạy học, tôi phải trình bày đầy đủ mọi nguyên nhân của chiến tranh một cách khách quan, nhưng thú thực, trong thâm tâm, câu nói của Anatole France, ngắn chỉ có mấy chữ thôi, cứ sáng lên như người đi trong rừng rậm Trường Sơn bỗng gặp được một thoáng trống hé chút nắng trên đầu. Với tâm trạng đó, tôi tiếp nhận năm 2014 mà nhà nước Pháp đang dành cho kỷ niệm “trăm năm Thế chiến thứ Nhất” với rất nhiều sinh hoạt văn hóa kéo dài suốt năm. Cái mới lạ thích thú trong dịp kỷ niệm lớn này là lời kêu gọi toàn thể dân chúng tham gia vào việc góp nhặt mọi chứng tích của cuộc chiến, gia đình nào còn giữ vết tích gì hãy cho nhà nước mượn để phóng ảnh lưu lại vào thư khố như là di sản lịch sử của một thời đại. Ngay khi lời kêu gọi được phát ra, hàng ngàn hàng vạn gia đình đã lục lọi trong những chồng thư cũ để cho mượn những thư mà họ đã nhận được, của chồng, của con, từ chiến trận gửi về. Tôi theo dõi chuyện này mà lòng cứ rạo rực một ước mơ: giá như ta cũng làm như vậy để hiểu lịch sử một cách sống động.
![]() |
Sống động! Quả thật vậy: năm nay nhờ đó mà tôi thấm thía hơn câu nói của Anatole France, tôi thấy Thế chiến thứ Nhất linh hoạt hơn, như cuốn phim đang diễn ra trước mắt. Qua sách vở, tôi đã biết đó là một chiến tranh rất ác liệt, hơn một triệu ba binh sĩ Pháp đã chết, xác nằm la liệt đầy đồng, đầy lũng. Tôi cũng biết đó là chiến tranh diễn ra trên các chiến hào, vì hai bên địch thủ phải đào hào, sống dưới hào, để chận đứng phản công của nhau. Lúc đầu, quân đội Đức dẫm qua nước Bỉ trung lập, lấn tới biên giới Pháp, cách thủ đô Paris chỉ 40 cây số. Liên quân Pháp Anh chận lại được bước tiến và buộc quân Đức phải tháo lui về phía bắc sông Aisne. Từ đó, quân Đức củng cố lực lượng, hai bên đào hào cầm cự, đánh nhau từ dưới mặt đất, giành nhau từng thước đất, trong suốt ba năm, chẳng ai hơn ai, mặt trận kéo dài trên 780 cây số, từ Bắc Hải đến Thụy Sĩ, với mục đích sát hại khí giới và nhân mạng, làm vỡ tinh thần của binh sĩ đối phương. “Drôle de guerre”, sách vở nói thế, chiến tranh kỳ quặc, không giống ai.
Qua sách vở, tôi cũng đã biết nhiều chi tiết lý thú của cuộc chiến kỳ quặc ấy. Chẳng hạn một vài thông lệ. Hai bên nổ súng trước lúc tảng sáng và trong lúc chạng vạng hoàng hôn, lợi dụng khoảng trời đất tranh tối tranh sáng. Rồi ăn sáng, ngưng bắn bán chính thức, ít ra là tại những mặt trận tương đối yên tĩnh. Ngày còn lại dành cho việc bồi đắp đường hào, tát nước ra khi trời mưa, làm vệ sinh các hố phân. Ngán ngẩm nhất là công tác này, không phải chỉ vì cái khứu giác bị phiền, mà vì các hố phân được đào ra mé ngoài, chỗ gần nhất với vị trí của đối phương, động tĩnh mà thiếu cảnh giác là bên kia báo động ngay, vì vậy cũng có cái hay là lính tráng đi vệ sinh chẳng ai dám ở lâu, lẹ lẹ lánh xa để an toàn tập thể. Chiều xế, lính được phép ngủ một giấc, ngắn thôi, để chạng vạng lại nổ súng. Ban đêm, hai việc nguy hiểm phải làm là rào lại dây kẽm gai và đi tuần để do thám đối phương trên khoảnh đất vô biên giới. Nguy lắm: khi hai đội tuần bất thần gặp nhau, hoặc là cứ đi, giả vờ không biết, hoặc là xáp lá cà. Súng nổ một tiếng là trung liên nhả ra hàng tràng đối đáp nhau.
Thế chiến thứ Nhất là dịp để phát minh thêm kỹ thuật vũ khí. Hỏa lực mạnh hơn, gây thiệt hại lớn hơn, nhanh hơn, lính chưa kịp thấy súng bên kia đã bị đạn ghim vào người. Trước mỗi đợt tấn công, hỏa pháo dội hàng giờ. Hơn thế nữa, lần đầu tiên, hơi độc được sử dụng. Khí mù che nhòa mặt trời, che nhòa ban ngày, che nhòa cả tuyết. Thế nhưng cũng chưa bằng cái khổ này: dòi bọ. Gặp mưa, đất trong đường hào nhuyễn ra thành bùn, kéo theo nguy cơ sập hào. Hầm thì bùn, lính thì đông, điều kiện vệ sinh thiếu thốn, dòi bọ chí rận tha hồ sinh sản. Đầu tiên là chuột, ngang nhiên tiệc tùng trên xác chết la liệt, con nào con nấy béo phị. Rồi chí rận tràn lan trong áo quần mền chiếu. Đâu phải chỉ cắn ngứa: chúng còn làm sốt, tê liệt cả tuần. Chân dẫm bùn ướt cả ngày, mốc meo lở loét. Hơi ẩm, hơi mốc, hơi đất, hơi thuốc lá, hơi người thiếu tắm rửa, hơi xác chết, tất cả trộn lại nồng nặc, khó thở. Và như thế kéo dài ba bốn năm.
Tôi đã biết chiến trận đường hào bầy nhầy ấy rồi. Lịch sử Pháp gọi lính tham chiến lúc ấy là “poilus”, “lính xồm”, râu tóc lông lá xồm xoàm, vì có ai cạo râu! Thế mà thiếu cái chi tiết này đến nay mới biết, mà chính cái chi tiết ấy mới làm tất cả quang cảnh kia sống động như cuốn phim trước mắt. Y như một dấu chấm, dấu phẩy nhỏ nhoi làm thay đổi phong vị của một câu thơ, cái chi tiết cỏn con ấy làm chấn động hiểu biết của tôi về một chiến tranh mà tôi chỉ thấy một mặt: đó là khoảng cách giữa hai chiến hào. Trước đây, tôi cứ tưởng ít ra nó cũng rộng bằng con sông Hương, bên này là Tây hãm thành, bên kia là vua Hàm Nghi kháng cự trong đêm thất thủ kinh đô. Không phải! Hai bên chỉ cách nhau hai chục thước! Có những vị trí tiến sâu hơn nữa, chỉ cách hào bên kia tám thước thôi. Chiến tranh gì mà kỳ cục, người Việt Nam đã từng biết chiến tranh là tôi không thể tưởng tượng ra. Và chính chi tiết ấy đưa đến một sự kiện kỳ lạ làm đảo lộn tất cả ý nghĩ của tôi về tương quan thù-bạn trong chiến tranh.
![]() Lính Anh và lính Đức chia nhau điếu xì gà trong sự kiện: “ngừng chiến đêm Giáng sinh” năm 1914 |
Dẹp sách vở qua một bên, tôi đọc lịch sử sống động trong thư gửi về gia đình của lính ngoài mặt trận chiến hào, những anh lính thấp bé nhất trong quân ngũ, chân dẫm bùn và râu tóc hôi chí rận. Họ không phải chỉ biết bắn nhau. Họ còn biết thân thiện. Hào này cách hào kia chục thước, họ ném thức ăn, nước uống, thuốc lá qua bên kia. Họ nói vọng qua bên kia để chào nhau, kẻ bập bẹ tiếng Đức, người nôm na tiếng Pháp. Họ không bắn nhau khi hầm cả hai bên đều ngập nước, phải lộ mặt ra ngoài để tát. Họ trao đổi nhau một thứ ngôn ngữ ngầm: chẳng hạn đội mũ sắt lên nòng súng, đưa ra ngoài hào để ngầm nói không bắn. Bên này hát, bên kia vỗ tay. Thậm chí, họ ném cả thông điệp, cho biết từ mấy giờ đến mấy giờ họ chỉ bắn sao trên trời. Cho biết hôm nay lính Phổ sẽ đến thay phiên lính Bavière, hãy coi chừng vì tụi ấy dữ hơn tụi tao. Đó là những trường hợp lẻ tẻ, nhưng xảy ra trên khắp mặt trận mà sau này các nhà viết sử mới sưu tầm lại. Tất nhiên, các sự việc đơn côi ấy bị cấp trên ém nhẹm, và đơn vị nào phạm kỷ luật có thể bị trừng phạt, thuyên chuyển. Nhưng sự kiện sau đây thì không nhẹm được, ít ra là ở Anh, vì một anh phóng viên đã chứng kiến tận mắt và kể lại trong nhật báo Daily Telegraph: đó là sự kiện “ngưng chiến đêm Nô-en”. Bây giờ, sắp kỷ niệm trăm năm, người ta xem đó như là một trong những biến cố để lại ấn tượng đậm nhất của thế chiến. Đồng loạt, trên nhiều mặt trận, hoàn toàn do sáng kiến tự phát của lính, không ai tán phát tin tức cho ai, hai bên không những ngưng chiến mà còn huynh đệ với nhau trong đêm Giáng Sinh. Khởi đầu, lính Đức đưa qua một đĩa bánh sô cô la cho lính Anh với một lời nhắn ngưng chiến để họ làm lễ và mừng sinh nhật của viên đại úy chỉ huy trưởng. Họ đề nghị làm một buổi hòa nhạc vào lúc 7 giờ rưỡi tối mà tín hiệu là nến thắp trên bờ hào. Lính Anh nhận lời và đáp lễ bằng thuốc lá gửi qua hào bên kia. Đúng giờ, lính Đức tràn ra bên ngoài và hát nhạc lễ. Lính Anh vỗ tay và hát đáp lại. Đến lượt lính Đức vỗ tay. Nến hiện ra khắp bờ hào, thắp sáng trên những cây thông tý hon, báo hiệu giờ mà cả hai bên đều làm lễ. Ngày hôm sau, hai bên đá bóng với nhau trên khoảng đất vô biên giới ngổn ngang xác pháo, trao đổi quà cáp nhận được từ gia đình.
Không ai hẹn ai, chiến trường giữa Đức và Pháp cũng diễn ra quang cảnh tương tự như giữa Đức với Anh. Có nơi, hai bên tận dụng ngày hôm sau để lượm xác bạn bè chôn cất tử tế. Một anh lính Pháp kể trong thư viết cho cha: “Từ hào này qua hào kia, kẻ thù bỗng hiện ra với mặt của con người. Kẻ thù ấy cũng là người như cha và con. Cũng là người như cha và con, hễ ngưng tiếng súng là khề khà rượu, cười dỡn...” Để lịch sử được sống động với bộ mặt khác của chiến tranh, tôi xin dịch lại nguyên văn thư của một anh lính Pháp:
“Ngày 26.12.1914
Cha mẹ yêu quý, chỉ còn 36 giờ nữa thôi phải sống trong hào, nhưng 36 giờ này thật là đặc biệt mà con sẽ kể lại sau đây. Lần này, bọn con cách hào của bọn Đức 25 thước, con thấy rất rõ bên kia. Các bạn mà con đến thay phiên kể rằng: từ 36 giờ vừa qua, phía kia chẳng bắn phát súng nào để tránh một cuộc chạm súng vô ích. Đó là một thỏa ước giữa bọn con và bọn họ. Các bạn sắp đi kể lại rằng bọn Đức đã nói chuyện với họ, trao đổi báo chí, cả thuốc lá nữa. Con không tin, trừ khi có rõ ràng chứng cớ. Rạng sáng, thấy hai bên yên tĩnh, con bạo gan hé một con mắt nhìn qua hào. Rồi nhìn chăm chú hơn. Quá ngạc nhiên, con thấy một anh lính Đức vùng Bavière bước ra ngoài hào, tiến tới trước một anh bạn đồng đội của con, anh này cũng đã bước ra như thế, hai anh trao đổi tờ báo và siết tay nhau thật chặt. Cảnh ấy diễn ra nhiều lần trong ngày. Một anh bạn vùng Alsace trao đổi vài câu với một anh chàng Bavière, anh này cho biết bọn họ không muốn bắn phát súng nào nữa, bọn họ luôn luôn đứng mũi chịu sào và ngán lắm rồi. Họ cho biết lính Phổ sắp đến thế, hãy coi chừng bọn ấy, còn với họ thì khỏi lo. Quả thật vậy, đã 4 ngày rồi mà cách nhau 25 thước chẳng hề nghe tiếng súng. Cả hai bên bỗng thành bạn, thành thật, con cũng đâm lo cho bọn họ nếu pháo của ta nã vào bọn họ, còn nếu đánh xáp lá cà thì con chẳng biết sẽ ra thế nào đây. Trong đợt tấn công vừa rồi, hai mươi người trong chúng con bị bắn chết, xác nằm cạnh hào của họ. Một viên sĩ quan của họ, rất lễ phép, mời phía con qua lượm xác và nói bọn con có thể tin họ. Nhưng phía con đã từ chối... Họ săn sóc thương binh của bọn con mà không cầm tù, một người trong bọn con được săn sóc như vậy trong 5 ngày. Vào buổi chiều ngày 24, một anh chàng Bavière trao một thư mà ông đại úy của con giữ kỹ, viết như thế này, con còn nhớ: “Các bạn thân mến, ngày mai là Nô-en, chúng tôi muốn hòa bình. Các bạn không phải là kẻ thù của chúng tôi. Chúng tôi kính phục đại dân tộc Pháp. Nước Pháp muôn năm. Thân chào. Ký tên, Bọn rợ Bavière”.
Đêm đến, trao đổi thân thiện giữa hai bên phải chấm dứt, rồi nửa đêm. Bỗng nhiên, sát cạnh chúng con, có tiếng hát đệm theo bằng sáo và harmonium. Đó là bọn Bavière làm lễ Nô-en. Cảm giác thật là kỳ lạ! Khi thì hát đạo, lúc thì nã súng, cả hai đều diễn ra dưới vầng trăng đẹp, giữa đồng bằng trắng xóa tuyết. Khi họ hát xong, bọn con reo lên hoan hô, hoan hô. Đến phiên bọn con, đại úy bắt đầu, đồng ca những bài hát Nô-en. Bọn họ lắng nghe, rồi vỗ tay tán thưởng. Nếu có ai kể cho con chuyện này, con sẽ không tin đâu, nhưng sự kiện là vậy và ở đâu cũng rải rác những chuyện như vậy... Thư này chắc sang năm mới đến tay cha mẹ, con xin chúc cha mẹ một năm 1915 tốt đẹp. Con mong năm mới sẽ xây dựng lại những gì mà năm 1914 đã phá hủy, hạnh phúc, gia đình, hy vọng, và sẽ mang lại hòa bình, công ăn việc làm, và phần thưởng xứng đáng cho những hy sinh mà chiến tranh này đã bắt chúng ta phải làm.
Con thân yêu của cha mẹ”.
Anh lính Louis Barthas, làm nghề đóng thùng gỗ trước khi nhập ngũ và tham chiến, viết trong thư: “Cùng chung một cộng đồng khổ đã làm gần gũi lại những trái tim, làm tan đi hận thù, làm nẩy ra thiện cảm giữa những người bàng quan và có thể là đối thủ. Ai không chịu tin điều đó chẳng hiểu gì tâm lý của con người. Dân Pháp và dân Đức nhìn nhau, thấy rằng họ cũng đều là người, giống nhau... Biết đâu một ngày nào đó, trên một góc của vùng Artois này, người ta sẽ dựng lên một đài kỷ niệm để tưởng nhớ cái động thái huynh đệ giữa những người cùng ghê tởm chiến tranh mà bị bắt buộc phải giết nhau ngoài ý muốn...”.
Tôi đã bắt đầu với Lênin là vì vậy. Và cũng vì vậy mà câu nói của Anatole France cứ sáng mãi trong đầu mỗi khi tôi nghĩ đến Thế chiến thứ Nhất. Mà không phải tôi chỉ nghĩ đến chiến tranh trong quá khứ. Tôi nghĩ đến hiện tại. Cuối năm 2013, sự kiện lịch sử đáng ghi nhớ nhất là tang lễ của cựu Tổng thống Nam Phi, Nelson Mandela. Cả thế giới, và hầu như toàn thể các nguyên thủ quốc gia đều đến dự. Cả thế giới ngưỡng mộ Mandela như một vĩ nhân của thế kỷ. Và ông đã làm gì? Hòa giải. Chấm dứt hận thù. Bắt tay kẻ thù ngay từ phút chiến thắng. Để cùng nhau xây dựng một tương lai chung cho xứ sở. Để xứ sở là của mọi người dân, không phân biệt một ai, không ai thắng không ai bại. Hình ảnh tuyệt vời của tha thứ, độ lượng, nhân ái, cao thượng, vương đạo.
Tôi nghĩ đến nước Ukraine đang phân thây giữa hai thế lực, một bên là Nga, một bên là Âu châu. Tôi cầu chúc họ tìm được một giải pháp hòa giải bền chặt để một nửa dân chúng không gọi một thế lực này là thù khi nửa dân chúng kia gọi là bạn. Nước Phần Lan trước đây, trong Chiến tranh Lạnh, đã nằm giữa hai thế lực như vậy. Có nên cầu chúc Ukraine rút được kinh nghiệm ấy chăng?
Và tôi nghĩ đến ta. Cầu chúc ngờ vực chia rẽ được xóa tan, hoa nở trái, lúa trổ bông trên mọi chiến hào của quá khứ. Và của hiện tại.