Đây là kiến nghị của đại biểu tại phiên họp tổ (Tổ 17 gồm Đoàn ĐBQH các tỉnh Lai Châu, Gia Lai và An Giang) về dự án Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ (sửa đổi)...
Tạo cơ sở pháp lý cho công tác quản lý
Đóng góp ý kiến với dự án Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ (sửa đổi), các đại biểu Tổ 17 tán thành cao với sự cần thiết, nhằm hoàn thiện cơ chế, chính sách, trình tự, thủ tục hành chính và khắc phục những khó khăn, vướng mắc, bất cập phát sinh trong quá trình thi hành, áp dụng pháp luật về quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ nhằm bảo đảm thống nhất với các luật có liên quan. Đồng thời, tạo cơ sở pháp lý trong công tác quản lý nhà nước và phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm, vi phạm pháp luật về vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ.
Qua đó, tiếp tục thể chế hóa đầy đủ, kịp thời chủ trương, đường lối của Đảng, tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước về quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ. Bảo đảm phù hợp với chủ trương của Đảng, Nhà nước về cải cách thủ tục hành chính, cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính; loại bỏ những quy định không hợp lý, đang là rào cản, gây khó khăn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp...
Tuy nhiên, các đại biểu còn một số băn khoăn liên quan đếncác khái niệm vũ khí quy định tại Điều 3 của dự thảo Luật. Theo đó, một số nội dung giải thích từ ngữ đã có sự thay đổi về nội hàm, về bản chất so với quy định của Luật hiện hành. Vì vậy, cơ quan soạn thảo cần nghiên cứu theo hướng chuẩn hóa từ các khái niệm của Pháp lệnh Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ hoặc kế thừa quy định của Luật hiện hành. Đồng thời, rà soát các quy định này để bảo đảm phân định rõ các khái niệm, tính chính xác, tính thống nhất trong hệ thống pháp luật, không vướng mắc trong thực tiễn áp dụng.
ĐBQH Nguyễn Thị Mai Phương (Gia Lai) cho rằng, việc giải thích từ ngữ gắn với tiêu chí “mục đích sử dụng” dẫn đến khó phân biệt rạch ròi giữa các loại vũ khí, gây khó khăn cho công tác quản lý; nhất là công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, xử lý các hành vi vi phạm liên quan đến vũ khí khi phải chứng minh mục đích sử dụng vũ khí của người vi phạm...
Cũng liên quan đến giải thích từ ngữ tại Điều 3, ĐBQH Đinh Ngọc Quý (Gia Lai) và nhiều đại biểu cho rằng quy định về vũ khí thô sơ tại khoản 4 chưa bảo đảm thống nhất.
Đánh giá kỹ lưỡng khái niệm "dao có tính sát thương cao"
Thu hút nhiều ý kiến phát biểu tại phiên thảo luận của Tổ 17 đó chính là các khái niệm liên quan đến vũ khí thô sơ, trong đó, có quy định về dao có tính sát thương cao.
Dự thảo Luật quy định:dDao có tính sát thương cao là dao sắc, dao nhọn và dao sắc nhọn, có chiều dài lưỡi dao từ 20cm trở lên hoặc có chiều dài lưỡi dao dưới 20cm nhưng được hoán cải, lắp ráp để có công năng tác dụng tương tự dao có tính sát thương cao thuộc danh mục vũ khí thô sơ do Bộ trưởng Bộ công an ban hành. Trường hợp sử dụng dao có tính chất sát thương cao vào mục đích lao động, sản xuất, sinh hoạt thì không thuộc phạm vi điều chỉnh của luật này...
Theo ĐBQH Phan Huỳnh Sơn (An Giang), cơ quan soạn thảo cần đánh giá tác động kỹ lưỡng và quy định chặt chẽ hơn về nội dung này để tránh gây xáo trộn, khó khăn trong đời sống, sinh hoạt cũng như sản xuất thường ngày của người dân và bảo đảm tính khả thi khi triển khai vào trong cuộc sống.
Lý giải của nhiều đại biểu khác cũng cho thấy, trong thực tế rất khó xác định khi nào thì dao được xem là vũ khí khi gắn với tiêu chí “mục đích sử dụng”. Đôi khi, dao đang là vật dụng hàng ngày sử dụng vào mục đích lao động, sản xuất, sinh hoạt của người dân nhưng khi dao được sử dụng để gây án thì nó được xem là vũ khí mang tính sát thương cao.
Thực tế cũng đã chứng minh, người sản xuất, người bán, cho mượn, tặng cho dao chưa hẳn có mục đích sử dụng dao vào việc gây án. Người mua, người mượn thì sử dụng dao cho nhiều mục đích khác nhau. Do đó, rất khó xác định khi nào thì dao được xem là vũ khí và khi nào không phải là vũ khí khi nó chưa được mang ra sử dụng trên thực tế.
Vì vậy, hành vi vận chuyển, mua bán, gửi, mượn, tặng cho dao sẽ bị nghiêm cấm trong trường hợp nào, cần phải được quy định cụ thể, rõ ràng hơn để tránh xử lý oan sai hoặc bỏ sót tội phạm, đặc biệt là không làm ảnh hưởng đến cuộc sống và sinh hoạt hàng ngày của cá nhân, tổ chức.
Do đó, cần đánh giá tác động kỹ lưỡng và phải quy định chặt chẽ hơn khi xem dao là vũ khí. Để phù hợp với quan điểm chỉ đạo đã nêu trong Tờ trình của Chính phủ là bảo đảm phù hợp với chủ trương của Đảng, quy định của Nhà nước về cải cách, đơn giản hoá thủ tục hành chính; loại bỏ những quy định không hợp lý, đang là rào cản, gây cản trở cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của người dân, cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp…
Về khai báo vũ khí thô sơ (Điều 32), các đại biểu thống nhất cho rằng, quy định khai báo vũ khí thô sơ phải bảo đảm linh hoạt và phù hợp với điều kiện phát triển của kinh tế - xã hội, điều kiện, tập quán sản xuất, lao động, sinh hoạt của người dân, tránh phát sinh thủ tục hành chính, gây phiền hà cho cơ quan, tổ chức, cá nhân. Đặc biệt, cần làm rõ phạm vi vũ khí thô sơ cần được khai báo.
Bên cạnh đó, cần rà soát các quy định về các hành vi bị nghiêm cấm (Điều 5) để bảo đảm đồng bộ, thống nhất với các điều khoản trong dự thảo Luật. Trong đó, có quy quy định các hành vi cấm đối với vũ khí thô sơ và dao có tính sát thương cao cũng phải khác với hành vi cấm đối với vũ khí quân dụng…
Cho ý kiến về quy định liên quan đến các biện pháp cảnh vệ tại dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cảnh vệ, các đại biểu tại Tổ 17 cho rằng việc sửa đổi nhằm khắc phục những bất cập, vướng mắc phát sinh trong thực tiễn công tác cảnh vệ thời gian qua, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ công tác cảnh vệ trong tình hình mới; góp phần bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.
Tuy nhiên, để bảo đảm rõ ràng, dễ theo dõi, dễ thực hiện, một số đại biểu đề nghị thiết kế một điều riêng trong Chương II quy định về các biện pháp cảnh vệ, bao gồm các nội dung bổ sung ở phần giải thích từ ngữ và các biện pháp cảnh vệ khác đã được nêu trong Luật...