Thói quen tức cười của người sáng tác

Ngọc Nhật 22/01/2011 23:52

Một sự thực đã không còn là bí mật: người có tài thường có những điều dị biệt. Đối với người viết truyện danh nhân – cái dị biệt ấy trở thành chi tiết, thành điểm sáng để khắc họa tính cách nhân vật. Còn với người đời – nó khơi mào cho những đàm tiếu và dị nghị. Nhưng với nhà nghiên cứu thì đó là chất liệu quý. Trên thực tế, những người tài giỏi, thông minh trước khi bắt tay vào việc thường tiến hành những nghi thức… tức cười.

Aristotle (384-322 trước Công nguyên): nhà triết học Hy Lạp cổ đại, được xem là người tạo ra môn luận lý học. Ông cũng thiết lập một phương cách tiếp cận với triết học bắt đầu bằng quan sát và trải nghiệm trước khi đi tới tư duy trừu tượng. Triết gia này chỉ có thể sáng tạo trên đường đi, vì thế ông luôn luôn cùng đám học trò nay đây mai đó, và trường phái của ông được người Hy Lạp cổ gọi là “peripateo” có nghĩa: rong chơi.

Piotr Ilich Chaikovsky (1840 - 1893): thiên tài soạn nhạc cổ điển người Nga. Những giai điệu không thể nào quên, những sắc màu mạnh mẽ và xúc cảm vô bờ bến trong từng tác phẩm từ lâu đã đưa ông trở thành một trong những nhà soạn nhạc cổ điển nổi tiếng nhất trong mọi thời đại. Tác giả Hồ Thiên nga khi soạn nhạc chỉ thích chỗ thanh vắng và tĩnh mịch.

Joseph Haydn (1732 - 1809): Nhà soạn nhạc nổi tiếng, người Áo, sáng lập trường phái âm nhạc cổ điển Vienna, “cha đẻ” của thể loại giao hưởng và tứ tấu. Những tác phẩm soạn lúc ông ngoài sáu mươi tuổi như các bản giao hưởng London, các tứ tấu cuối cùng, hai vở thanh xướng kịch có giá trị lớn trong lịch sử âm nhạc. Khi soạn nhạc, ông thường lấy cảm hứng từ những đồ vật phát quang, mắt chăm chăm nhìn vào viên kim cương đính ở chiếc nhẫn đeo tay. Thiếu chiếc nhẫn kim cương đó, đố ông viết nổi một nốt nhạc. 

 

Charles-Luis de Secondat Montesquieu (1654-1713): nhà bình luận xã hội và tư tưởng chính trị Pháp sống trong thời đại Khai sáng, thường được biết đến dưới tên Montesquieu. Ông nổi tiếng với lý thuyết Tam quyền phân lập. Nhà tư tưởng này làm việc quả là nghiêm túc: trước khi ngồi vào bàn viết, bao giờ ông cũng phải thay… ống tay áo mới.

Friedrich Schiller (1759-1805): nhà thơ, nhà soạn kịch và triết gia người Đức. Ông được xem như là nhà viết bi kịch có tầm quan trọng nhất và cùng với Johann Wolfgang von Goethe (1749-1832), Christoph Martin Wieland (1733-1813) và Johann Gottfried von Herder (1744-1803) là những đại diện quan trọng nhất của phong trào Văn học cổ điển Weimar. Ông được mệnh danh là “Shakespeare của văn học Đức”. Tác giả Âm mưu và tình yêu mỗi khi có cảm hứng sáng tạo thường đặt lên bàn một vài quả táo, nhưng phải là táo… ủng.

Heinrich Heine (1797-1856): thi hào Đức, nhà thơ duy nhất của mọi thời đại và mọi nước có thơ được phổ nhạc nhiều nhất trên hành tinh này. Ông có thói quen cứ phải nghe nhạc mới có cảm hứng làm thơ.

Johann Wolfgang von Goethe (1749-1832): nhà thông thái của Đức, toàn tài, để lại nhiều tác phẩm thơ, họa, kịch, tiểu thuyết, và công trình khoa học. Tác giả kịch thơ Faust tiết lộ: chỉ thích viết bằng bút chì, chứ tiếng ngòi bút chạy trên giấy sột soạt chỉ tổ khiến mạch suy nghĩ của nhà thơ bị đứt đoạn.

Charlotte Bronte (1816-1855): nữ văn sĩ Anh, còn dùng bút danh Currer Bell, là chị cả trong ba chị em nhà Bronte nổi tiếng, tác giả của những tiểu thuyết xếp vào hàng kinh điển của văn học Anh. Tác giả Jane Eyre - một trong những tiểu thuyết tiếng Anh nổi tiếng nhất mọi thời đại - trong khi viết thỉnh thoảng cứ phải buông bút để ra bếp… gọt khoai. Xong việc đó rồi, cảm hứng sáng tác mới quay trở lại.

Alfred de Musset (1810-1857): thi sĩ, tiểu thuyết gia đồng thời là nhà soạn kịch nổi tiếng, đại biểu thời kỳ cuối của trường phái lãng mạn ở Pháp. Tác giả vở kịch Không đùa với tình yêu và nhiều áng thơ trữ tình mê ly thú thực: chỉ viết được thơ trong ánh nến lung linh trang trọng, không thích bị ai quấy rầy, và trên bàn bày sẵn hai bộ đồ ăn, một dành cho mình, một dành cho… người tình tưởng tượng.

Christoph Willibald Gluck (1714-1787): nhạc sĩ thiên tài người Đức, người mở đầu trường phái âm nhạc cổ điển Vienna với những cải cách nhạc kịch đi vào lịch sử âm nhạc thế giới. Trước khi ngồi vào bàn sáng tác, nhạc sĩ nhất thiết phải mặc một bộ đồ chọn sẵn, còn cây đàn dương cầm phải tắm trong ánh nắng chói chang. Chính trong bầu không khí đó đã ra đời những vở opera kiệt xuất Orfeo và Euridice, Alceste, IphigénieAulide, Iphigénie và Tauride… phá vỡ phong cách “opera seria” từng thống trị trong nhiều năm.

Emil Zola (1840-1902): nhà văn nổi tiếng của văn học Pháp thế kỷ XIX, được coi là nhà tiên phong của chủ nghĩa tự nhiên (naturalism). Tác giả bộ tiểu thuyết Les Rougon-Macquart (Lịch sử tự nhiên và xã hội của một gia đình trong Đế chế thứ Hai) viết trong 25 năm, dài tới 20 quyển chứng tỏ mình có độ lì đến mức nào. Để làm được như thế, mỗi khi ngồi vào bàn viết, nhà văn lại tự dùng dây thừng buộc mình vào ghế.

Richard Wagner (1813-1883): nhạc sĩ Đức nổi tiếng về việc sử dụng “hòa âm gam nửa cung” hơn bất kỳ một nhạc sĩ cùng thời nào. Ông đã đưa ra nguyên lý “âm điệu phải dựa trên giới hạn logic của chúng”. Có thể nói, Richard Wagner có tầm ảnh hưởng to lớn đến các nhà soạn nhạc sau này như Debussy và Schoenberg. Ông này có thói quen… sờ mó: mỗi khi s#ạn một bản nhạc mới, ông thường đặt những dải lụa sặc sỡ lên bàn hoặc lên giường, thỉnh thoảng lại đưa tay mơn man dải lụa. Ông làm như thế để lấy cảm giác sang trọng truyền vào tác phẩm của mình.

Victor Hugo (1802-1885) nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch nổi tiếng của Pháp. Các tác phẩm của ông rất đa dạng, gồm: tiểu thuyết, thơ, kịch, diễn văn chính trị... trong đó tiêu biểu là hai tiểu thuyết mang đậm tính nhân bản Những người khốn khổ (Les Misérables)Nhà thờ Đức Bà Paris (Notre-Dame de Paris). Cây bút vĩ đại này sẽ không thể viết nổi một câu nếu như không đặt trước mặt mình một pho tượng đồng tạc hình… chú khuyển.

Walter Scott (1771-1832): tiểu thuyết gia lỗi lạc, đồng thời là thi hào xứ Scotland, từng sinh sống tại rất nhiều quốc gia châu Âu, có được lượng người hâm mộ khổng lồ trên khắp lục địa này cũng như ở các châu Mỹ, Á và Úc. Tác giả tiểu thuyết nổi tiếng Ivanhoe có ý thích ngược đời: ông sáng tác càng có hiệu quả ở chỗ trẻ con đang chơi đông đúc ồn ào.

Immanuel Kant (1724-1804): được xem là triết gia quan trọng nhất của nước Đức, hơn nữa - là triết gia lớn nhất của thời kỳ cận đại (Neuzeit), của nền văn hóa tân tiến và của nhiều lĩnh vực khoa học nhân văn khác. Sự nghiệp triết học của ông được biết đến qua hai giai đoạn: “tiền phê phán” và sau năm 1770 là “phê phán”. Học thuyết “Triết học siêu nghiệm” (Transcendental philosophy) của Immanuel Kant đã đưa triết học Đức bước vào một kỷ nguyên mới. Tương truyền  “danh tiếng của ông đã đẩy lùi những gì đi trước vào bóng tối và tỏa sáng lên trên những gì đi sau”. Ông rất hay trích dẫn ví dụ từ một cuốn sách của Anh có nhan đề Spectator: “Vị trạng sư nọ có một thói quen mỗi khi mở miệng hùng biện phải buộc chặt sợi lạt vào một ngón tay. Bỗng một hôm, ông ta đánh mất sợi lạt và nói năng lúng ba lúng búng”…

    Nổi bật
        Mới nhất
        Thói quen tức cười của người sáng tác
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO