Thơ tặng phu nhân họ Đoàn
Phu nhân người họ Đoàn tên là gì thì chưa rõ, nhưng chuyện cảm động về cái chết của bà thì người đời vẫn truyền tụng mãi không dứt. Trong Tang thương ngẫu lục, Kính Phủ Nguyễn Án đã chép chuyện về bà như sau:
“Phu nhân người họ Đoàn là vợ thứ của quan Du Lãnh Hầu Ngô Thúc Du, Bà là người làng Trảo Nha(1). Du Lãnh Hầu vốn dòng dõi nhà tướng, thời Cảnh Hưng(2), từng giữ chức Quản Đốc của đội quân tiên phong. Tháng 6 năm Bính Ngọ (1786), Du Lãnh Hầu bị tử trận(3).
Trước đó, vì bà vợ cả của Du Lãnh Hầu đã vào chùa đi tu mà phu nhân người họ Đoàn thì trẻ, đẹp, lại chưa có con, nên vẫn được Du Lãnh Hầu coi như vợ cả. Khi Du Lãnh Hầu mắc nạn mà mất, phu nhân người họ Đoàn vẫn cười nói như không, khiến người nhà ai cũng lấy làm lạ. Ít lâu sau, bà dặn dò việc nhà cho thân nhân của Du Lãnh Hầu rồi đến chùa Kiến Sơ ở làng Phù Đổng(4) là nơi bà vợ cả của Du Lãnh Hầu đang tu hành, lập đàn chay cho chồng. Đàn chay xong, phu nhân cùng bà vợ cả và các con của Du Lãnh Hầu ra đặt bài vị ở bến Thúy Ái là nơi Du Lãnh Hầu tử trận, ngoảnh mặt về phía Nam để chiêu hồn và tế. Người gần xa kéo nhau tới xem đông lắm. Thế rồi phu nhân sửa sang y phục đẹp đẽ, son phấn điểm trang đàng hoàng và chèo thuyền nhỏ ra giữa sông, gieo mình xuống nước tự vẫn. Dân nơi ấy bèn lập đền thời bà. Sau, ông Huấn Đạo là An Nhân Hà Sách Hiển có thơ vịnh bà rằng:
Khả liên nhị bách dư niên quốc,
Thiên lý dân di nhất phụ nhân.
(Thương thay một nước những trên hai trăm năm
Lẽ trời và đạo đời chỉ sót lại ở một người đàn bà).
Lời bàn: Khóc than, dù là khóc than thảm thiết nhất vẫn không phải là biểu hiện duy nhất của sự tiếc thương vô hạn, của đạo nghĩa thủy chung vợ chồng. Ai dám bảo việc nói cười như không của phu nhân người họ Đoàn sau khi nghe tin chồng mất là sự vô tâm đáng chê trách? Không ai lại cổ vũ cho việc chết theo, nhưng trong một chừng mực nào đó, việc chọn lựa cái chết với những lý do chính đáng riêng, kể cũng là việc cần được hiểu và cần được cảm thông. Vả chăng, chọn cái chết có phải là chuyện dễ đâu, bởi vậy, dân ở bến Thúy Ái lập đền thờ phu nhân người họ Đoàn cũng phải lắm. Xưa mà!
Ý thơ của quan Huấn Đạo là An Nhân Hà Sách Hiển chừng như cũng man mác chút buồn với nhân tình thế thái thời quan đương chức. Đoàn phu nhân ung dung lao xuống sông, việc cũ dẫu có làm cho quan cảm khái mà cầm bút đề thơ, nhưng nếu quả thật lẽ trời và đạo lý ở đời mà chỉ có Đoàn phu nhân là người giữ được, thì đâu còn giang sơn thái bình để trăm họ đặt ghế thỉnh quan ngồi. Song le, dẫu có khác tý chút về mức độ, thì ý của quan cũng là ý của thiên hạ một thời: khả kính thay, Đoàn phu nhân!
_______________
1. Nay thuộc tỉnh Hà Tĩnh.
2. Niên hiệu của Hoàng Đế Lê Hiển Tông, dùng từ năm 1740 đến năm 1786.
3. Đây chỉ trận thua quân Tây Sơn.
4. Chùa này nay thuộc tỉnh Bắc Ninh.