Thị Mầu (Phần hai)
“Bà Chúa đã đem thân thể trinh nguyên, hun đúc tú khí những hoa trái tươi ngon, bờ xôi ruộng mật, tiếng trống chèo rộn rã, mái rạ bốc khói chiều hôm của một nơi thôn ổ bình dị, của cả quê hương dâng lên trọn vẹn cho Đức Vua. Trên đồng Đơm, chỗ triền đê này, long thể đã chấp nhận chúng, hóa hợp lại, như một cuộc giao hòa giữa đất và trời, trên và dưới, âm và dương, lòng dân với ý thánh tôn cao cả. Nó cho thấy sự bình dị của ngôi sang, sự vươn tới thánh thiện của kẻ dưới...”

Giọng chủ tế ngân nga. Ông trưởng ban văn hóa xã, người soạn bản văn đứng cách mấy bước gật gù: “Có thế chứ. Đọc có hồn lắm!”
*
“Người vẫn là trinh nữ!” Khỏi nói thì ta cũng dư biết điều ấy. Đức Ngài đã xốc xống áo, lấy lại vẻ cao vời bước ra khỏi buồng quây. Để lại cho ta một phận đàn bà (ta đã mất cái ấy rồi, trong mắt thiên hạ) với bao đa đoan, mình không còn là mình. Và là ai, thì chưa biết.
Trong chung chiêng, ta không được ở lại căn nhà có mẹ hiền đảm, bố củ mỉ cù mì và lũ em hôi hám. Ta không được như chị Nhài, sang hai nhăm đã năm đứa. Căn buồng bà đẻ kín mít, tanh tưởi, có thúng tro để các thức bẩn thỉu dưới gậm giường, nhưng chị được an phận là mình, làm con gà mái sòn sòn đến hết trứng chứ chả chung chiêng như ta.
Làng Bùng, rồi cả tổng Diêu Canh xúm lại dựng ngôi nhà cho cô gái đã thọ lộc vua. Tre pheo, lợp lá gồi, nhưng nó thoáng rộng, có kiểu cách chứ không bí rị như nơi cha mẹ. Bộ trường kỉ tre, cái sập gụ, lồng chim trước hiên, thật là thích. Ta ăn trắng mặc trơn, có một người tớ gái sàn sàn tuổi luôn “tâu lệnh bà”, dằn dỗi mãi thì rằng làng bắt thế. Mãi mới chuyển sang “thưa cô” được, mà chỉ lúc hai đứa với nhau. Thiện Sĩ chả còn là gì. Cái hôm anh ta tuân lệnh chánh tổng viết đôi câu đối đem đến treo, ta nắm tay (chả gì ta cũng có hơi trai rồi) hỏi: “Cái việc của em với chàng thì sao?” Sĩ rụt vội, mặt xanh xám nhìn quanh: “Phận ấy kể như không có. Coi là tôi mất phần sêu hai Tết”. Khinh khi anh chàng hèn hạ, ta chợt nhận thấy từ nay kinh khủng biết bao.
*
“Bà Chúa có lòng nhân từ, hay giúp giập người xung quanh. Trong khi chờ đức Hiến Tông cho kiệu về rước lên kinh, nàng chữa bệnh cho trẻ, dạåy dân nghề canh cửi. Một dải ven sông tiêu mướt bờ dâu, cả tổng lách cách tiếng thoi đưa. Hiềm vì mình rồng ở xa quá...”
*
Từ nay ta là kẻ trên trong làng, hơn hẳn bà chánh vàng đeo đầy người. Lũ vợ đám lý trưởng, lý mua càng không là gì. Sang thế mà xa cách, trống toang toàng toàng. Có đứa trẻ sài đẹn, ta mài miếng quế thanh cho uống. Sang nhà Nhài gỡ đám tơ rối, hăng hái, cậm cụi kẻo phát điên. Đêm về nhà như cái lồng hổng thênh thang mỗi bóng mình. Ta chạy về chốn cũ, ngả người trên chiếc giường con gái, nó ngắn ngủn để không thể nằm ngửa. Cha mẹ ra xua.
- Con lậy mẹ cho con về. Cám khoai mặc lòng, còn hơn nằm xuống lại nghĩ đến ma. Con còn con gái, chẳng nhẽ không được lấy chồng, hoa nguyệt rồi chửa đẻ nữa sao?
- Phỉ phui con ơi. Gì thì cũng đã rồi, không chữa được.
Chánh tổng, lý trưởng, cả đồ Phan đến, dõng dạc: “Cô nương đã là riêng của đức Kim Thượng, không thể tự nhiên như đám nụ cà hoa mướp ngoài kia nữa”. Ta lủi thủi về “nhà” theo chú dõng, mở lồng cho những sáo sậu vàng anh bay ra.
Nhà Thị Kính có đám hỷ. Anh chàng đã sêu Tết ta xống áo nghênh ngang đón cô ấy về. Chả hay đã quên ta hẳn…
*
“Bà Chúa là người đức hạnh, ở vậy đợi chờ, một lòng chỉ tưởng đến Quân Vương. Ngài Ngự ở xa, trăm công nghìn việc toàn đại sự, chưa đoái lại nơi thôn dã từng dừng chân, qua đêm trên cánh đồng Đơm. Đến bữa Bà Chúa xới hai lưng cơm, một dâng lên Ngài Ngự đang ở xa, một cho mình...”
*
Ăn không ngồi rồi rực mỡ, ta hệt mấy vợ lính vắng chồng, đêm đổ thóc ra xay, vần cối huỳnh huỵch, mồ hôi nhoẹt dải yếm mà không thể ngủ. Trời rét chết đám cải mới vãi mà phải ra ao trầm mình cho lũ bèo mơn man. Thân ta nóng ran khi nghĩ đến bàn tay người ấy mân mó đôi nhũ hoa, dù nó lạnh ngăn ngắt. Đức Vua không mạnh, điều ấy rõ, nhưng vẫn có hơi lạ khi phủ lên ta, mở ra một cõi chưa từng trải, chỉ có thể bước vào chứ không quay lại được. Ta tưởng sang đôi tay Thiện Sỹ lóng ngóng treo câu đối hôm nào, chả biết nó có nóng. Trời đất ạ, ta không được quyền tơ tưởng nhục thể kia mà.
Trong tốp thợ đến dựng nhà ngang có Đức Trường, trượt thi hương nên vứt bút lông sang cầm đục chạm. Chàng cởi trần cột tóc, không vai u thịt bắp mà mảnh mai, săn chắc. Lưng ấy chắc “đục” phải biết. Lúc Trường tra xong con xỏ, tụt xuống, ta bưng bát chè tươi lại, sóng sánh: “Uống cho đỡ khát, bác phó”. Chàng uống tự dưng, mắt không cụp, trong khi ta bất giác rụt tay lại. Rồi vắt vẻo trên cây đà mà hát.
Rằng:
Bớ cây xoan đào
sao cứ đu đưa
có biết con chiện
đã mỏi cánh rồi
Mỏi cánh rồi thì phải bay thôi...
ới làng nước ơi
có thấu chăng cái nỗi bay bay...
Ta trở vào, hình như sắc mặt có dậy, ngồi trong nghe tiếng gõ khoan nhặt mà đoán người đang làm gì. Làm gì chả biết. Có một lúc lại vén ống quần lá tọa gí vào gốc chuối. Bố láo bố toét đến thế là cùng!
Đêm, đang lọc xọc cài then thì có bàn tay chặn lại. Đức Trường lách vào, sừng sững nhìn. Đương khi mắt ta lảng tránh thì sấn lại ôm thin thít. Ta xây xẩm như phải cảm, trong đầu có đám rối không cho chống đỡ. Cho đến lúc Trường xìu xuống, hổn hển trên người ta, ta mới hết cả hồn. May là con “thị nữ” đang tuổi ăn tuổi ngủ đã pho pho.
*
“Những đêm vò võ, ngày khắc khoải chờ mong không làm mòn lòng thủy chung. Bà Chúa một mực chỉ hướng về Chúa Thượng. Nàng thường dừng tay đưa thoi, nhủ con hầu rằng “ấy, Ngài đang rong ruổi trên mình ngựa, chả bình Chiêm thì cũng là dẹp động Mán thôi”.
*
Ôi chao là những run rẩy đợi chờ. Nghĩ đến là nóng ran. Gặp nhau là mê man rồ dại, điên cuồng ghì siết. Mắt ta long lanh, môi khô ráo, má dậy rực rỡ đến nỗi con hầu ngạc nhiên: “Sao hôm nay chị nhuận sắc thế?” Được cái là nó tốt giấc, chập tối đã díp mắt, ta bảo để bát đĩa đấy là lên giường không vẫy tai.
Đêm sau Trường đến muộn, khi đám dõng đã sát phạt trong điếm. Đẩy cánh cửa không cài then, chàng lách vào, đứng áp tường nhìn ta đăm đắm.
- Có chuyện gì ư? – Ta hỏi.
- Tôi chả ngờ cô nương vẫn còn trinh tiết.
- Em chỉ là của rơi của vãi của bề trên. Đức Kim Thượng có biết làm gì đâu. Có đâu như chàng. Em trọn vẹn là của chàng.
- Điều ấy làm tôi sợ. Bề nào tôi cũng đã có vợ, cô nương gì gì cũng vẫn là của cải của Vua. Đức Ngài đã rờ đến thì không thể chạm vào như hút cái điếu chung.
Ta chan hòa nước mắt. Sự khai mở vừa dồi dào đã vụt tắt. Sao Trường không thể coi ta như con Thị Mầu hái đỗ bẻ ngô bình thường. Nhưng chàng đã đặt tay lên vai ta: “Thôi nào, chả nghĩ xa xôi nữa. Đây nhớ đấy cả ngày, nhìn nước mắt mất cả vui”.
Sự thể còn hân hoan hơn hôm đầu. Ta đã dạn dĩ, chủ động hơn trong dâng hiến. Ta cũng kiếm tìm chàng, lắng nghe những đợt sóng của mình, biết chờ đợi, dâng nó lên đúng lúc. Ta đã là một đàn bà thành thục, tỏ rằng mọi bổn phận, đức hạnh đều chỉ là mớ rau con tép so với niềm vui này. Còn gì lớn hơn, trọn vẹn, thần thiêng hơn là đôi bên trọn vẹn trao gửi, dìu nhau đến tột đỉnh sung sướng, nó làm ta phải cố mà kìm lại tiếng rên dài. Mái nhà, con mèo cái ném tiếng tru vào đêm đen.
*
“Trong hàng xóm có bao nhiêu vợ lính vắng chồng là bấy nhiêu nhà được Bà Chúa đến thăm, nhủ rằng phải gìn giữ tấm thân trinh liệt. Bà Chúa là tấm gương cho cả tổng Diêu Canh, có 142 đàn bà đêm ngày tằm tơ canh cửi cho chồng đang chiến trận hay sôi kinh nấu sử tận kinh đô”.
*
Rồi ta tắt tháng, nôn khan. Chúm nhũ hoa thâm đen, đến kì không còn bẩn mình. Một đêm vuốt ve xuống dưới, Đức Trường ngẩn người thảng thốt. Chàng đã không còn hăng hái, hỏi chả bảo sao.
Mấy hôm không sang. Ta gọi lý trưởng bảo thay khung cửa, hình như tre ngâm dối mà chóng mọt. Đến đục đẽo là ông lão sáu mươi, bảo Trường đã bê vợ con làm ăn nơi xa, khéo đang kéo cưa lừa xẻ trên tận Hưng Hóa. Nghĩa là rừng xanh nước độc rồi...
Mình dưới lên lùm lùm. Làng mang đến những lá lẩu chết tiệt, bảo uống cho ra thai. Ta chẳng bỏ con. Nó chẳng những là máu thịt, mà còn là hồn cốt, kỉ niệm của những ngày đẹp nhất trong đời ta – mãi ta mới ngộ ra thế. Con của Trường ra đời sau những bẽ bàng, cô quạnh, nhưng thật xinh đẹp. Ta rờ rỡ vén yếm cho con bú, bầu vú thây lẩy, mọc gai gạo không còn gọn ghẽ, hề gì. Bảo làng rằng làm gì thì làm, ta tình cờ gặp bố nó trong buổi thăm vườn dâu. Gọt đầu bôi vôi lột quần áo dong đi khắp chạ, cứ việc!
Hương câm đồ điếc bàn mãi, mất ba chum rượu với lũ lỹ lòng lợn thịt chó, không nhất định được. Chả ai dám phạt quý cô nương đã được thọ ân sủng từ ngôi cao tót vời. Nhưng ta bị cướp mất con, đưa sang chùa. Ngực ta rừng rực tức, đêm tru như con chó cái. Con hầu cũ phải đòn vọt, đổi đi. Ngoài kia, người ta vuốt lại cho phẳng sự tình, yết với chúng dân là Bà Chúa đổ bệnh vì mong chờ Ngài Ngự lâu quá.
Được cái người nuôi con là tiểu Kính, bỏ lên chùa vì có chuyện gì đấy với nhà chồng.
*
“Bà Chúa bắt đầu nhận con nuôi. Năm đứa trẻ vô thừa nhận được đem về, tắm táp khỏi tanh hôi, vận áo mới. Căn nhà sơ sài đầu làng sáng bừng lên trong tiếng ầu ơ bi bô, mặt mũi bà mẹ rạng rỡ vì bận việc công đức”.
“Chẳng bao lâu chúng lớn lên, bay nhảy, giúp bao việc có ích cho đời. Nhưng đi đâu về đâu thì vẫn nhớ về tấm lòng bao dung...”.
(còn nữa)
Trần Chiến